Bản án 44/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số41/2019/TLST-HS, ngày 26 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2019/HSST-QĐ ngày 05/4/2019 đối với bị cáo: Dương Đình Q, sinh ngày 9/3/1975 tại Tuyên Quang

Nơi cư trú: Thôn H, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12, dân tộc: Kinh; con ông Dương Đình C, sinh năm 1940 và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1946; vợ là Mai Giang H, sinh năm 1980; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2007 con bé sinh năm 2012; Anh chị em ruột có 4 người, bị cáo là con thứ 3; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Đình Q. là người nghiện ma túy, ngày 17/12/2018 bị cáo đi xe ôm ra khu vực bến xe khách thành phố Tuyên Quang tìm mua ma túy mục đích về sử dụng. Tại đây bị cáo đã mua của một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 10 gói nhỏ ma tuý được gói ngoài bằng lớp giấy lịch nhiều mầu và chữ để trong 1 túi nilong mầu trắng, miệng túi có đường viền mầu đỏ trong chứa chất bột vón cục mầu trắng ngà (bị cáo Q. khai là Heroine) với số tiền 1.000.000 đồng (một triệu đồng), xong bị cáo lại đi xe ôm về nhà. Về đến nhà bị cáo lấy 01 gói ma túy ra sử dụng bằng hình thức tiêm chích ma tuý vào cơ thể. Số còn lại bị cáo cất giấu vào trạn bát tại gian bếp của nhà, mục đích để sử dụng dần.

Hồi 15 giờ 00 phút cùng ngày 17/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnhTuyên Quang thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với Dương Đình Q, phát hiện thu giữ 09 gói ma tuý trên tại trạn bát trong gian bếp nhà bị cáo Q. thuộc thôn H, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

Tại Kết luận giám định số 85/GĐKTHS ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà trong 09 gói nhỏ thu giữ của Dương Đình Q. gửi đến giám định là Heroine, khối lượng 0,404g (không phẩy bốn không bốn gam);

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 48/QĐ-KSĐT ngày 25 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Dương Đình Q. về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Dương Đình Q. phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Dương Đình Q. từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, trong có chứa chất ma túy (Heroine) là vật chứng của vụ án, trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng minh thư nhân dân mang tên Dương Đình Q. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo Dương Đình Q. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố đối với bị cáo; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Dương Đình Q. tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 00 phút ngày 17/12/2018, tại thôn H, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; bị cáo Dương Đình Q. đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,404g (không phẩy bốn không bốn gam) Heroine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực hành vi dân sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý sử dụng của nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ tái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và có cơ sở, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố mẹ đẻ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[5] Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo Q. không có tài sản gì có giá trị, bị cáo tàng trữ để sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo .

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo: 0,404g (không phẩy bốn không bốn gam) Heroine. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong 1 phong bì giấy có dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo Q. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Thu giữ 01 Giấy chứng minh nhân dân số 070496963 do Công an tỉnh Tuyên Quang cấp ngày 16/02/2005 mang tên Dương Đình Q, Đây là giấy tờ tuỳ thân không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông theo bị cáo Q. khai đã bán ma túy (Heroine) cho bị cáo ở khu vực bến xe khách thành phố Tuyên Quang, nhưng không xác định được họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ điều tra, xử lý. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Q, ngày 20/12/2018 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 67/QĐ-CATP, hình thức phạt Cảnh cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [9] Về án phí: Bị cáo Q. phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều38 Bộ luật Hình sự

- Tuyên bố: Bị cáo Dương Đình Q. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Dương Đình Q. 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (17/12/2018).

2. Căn cứ vào: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

- Tịch thu tiêu hủy 01(một) bì giấy niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài mặt trước ghi “Tang vật vụ Dương Đình Q, giám định ngày 17/12/2018”, mặt sau có chữ ký của Bị cáo Dương Đình Q. và 05 hình dấu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong bì giấy có chứa Heroine (đối tượng giám định hoàn lại), là tang vật của vụ án thuộc loại nhà nước cấm lưu hành.

- Trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng minh nhân dân số 070496963 mang tên Dương Đình Q.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/4/2019 giữa Công an thành phố Tuyên Quang với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang)

3. Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

- Về án phí: Bị cáo Dương Đình Q. phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Q. được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về