Bản án 44/2019/HS-ST ngày 10/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 10/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 09 và 10 tháng 7 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 44/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2019/QĐXXHS-ST ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với:

- Bị cáo: Danh T, Sinh ngày 30 tháng 12 năm 1999. Nơi sinh: Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: Không; Tạm trú: đường L, khóm B, phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Giới tính: Nam; Dân tộc: Khmer; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Danh L; (chết) và bà: Trần Thúy H; Anh, chị em ruột: không. Tiền án: 01 lần: vào ngày 15 tháng 08 năm 2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng tuyên phạt 06 tháng tù, về Tội trộm cắp tài sản, đến ngày 16 tháng 10 năm 2018 chấp hành xong hình phạt tù, đến lần phạm tội này bị can chưa được xóa án tích. Tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28 tháng 03 năm 2019 cho đến nay. (có mặt);

- Bị hại:

1. Ông Trần Hữu T, sinh năm 1966; cư trú: khu dân cư S, đường N, khóm X, phường H, thành phố S (vắng mặt)

1 2. Ông Trương Hoàng Ng, sinh năm 1998; Cư trú: đường M, khóm B, phường T, thành phố S(vắng mặt)

3. Ông Võ Ngọc L, sinh năm 1964; Cư trú: đường B, khóm M, phường B, thành phố S (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần Quốc V, sinh năm 1985; cư trú: Nhà trọ N, Quốc Lộ 1, phường H, thành phố S(vắng mặt)

2. Trần Thị Diễm Th, sinh năm 1982; Cư trú: đường Tr, khóm T, phường B, thành phố S (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Danh T là người không có nghề nghiệp ổn định và bị nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng, bị can đã nhiều lần trộm cắp tài sản của người khác, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 20 tháng 02 năm 2019, T đang ngồi chơi tại bến đò khu vực chợ Mỹ Phương, phường 1, thành phố Sóc Trăng thì gặp Hoàng Văn Kiệt lúc này T mới rủ Kiệt đi tìm tài sản của người khác lấy trộm để đem đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì Kiệt đồng ý. Lúc này T đưa xe mô tô mang biển số 59Z2-077.63 cho Kiệt điều khiển chở T đi xung quanh các tuyến đường của thành phố Sóc Trăng để tìm tài sản, khi cả hai điều khiển xe đi đến trước nhà số NL2-A09, khu dân cư Sáng Quang, đường Nguyễn Văn Linh, khóm 6, phường 2, thành phố Sóc Trăng do anh Trần Hữu T (T) là chủ sở hữu thì nhìn thấy phía trước sân nhà của T có 01 (một) cây mai nhưng không có người trông giữ, lúc này T ngồi phía sau nhìn thấy và nảy sinh ý định lấy trộm cây mai đem đi bán lấy tiền tieu xài cá nhân. Với ý định như vậy, T đã chỉ cho Kiệt và nói với Kiệt là “ có cây mai kìa lấy kiếm người bán” thì Kiệt đồng ý và dừng xe lại, sau khi dừng xe lại T một mình đi đến lấy trộm cây mai bỏ vào bao nylon đã được T đem theo rồi ôm lên xe cho Kiệt chạy đi, khi cả điều khiển xe đi đến vòng xoay Nguyễn Văn Linh và Phú Lợi, phường 2, thành phố Sóc Trăng để tìm người bán cây mai thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

Tại kết luận định giá tài sản số 19, ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sóc Trăng, kết luận: 01 (một) cây mai vườn còn sống, có chiều cao là 1,55 mét, tán rộng 1,2 mét, chu vi gốc 34 cm, giá trị sử dụng còn lại 100%, có giá 700.000 đồng.

Lần thứ hai: Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 13 tháng 03 năm 2019, Danh T một mình đi bộ xung quanh các tuyến đường của thành phố Sóc Trăng để tìm tài sản lấy trộm tài sản, khi T đi bộ trên đường Lý Thường Kiệt, phường 4, thành phố Sóc Trăng đi từ hướng cầu Marpero về chợ trung tâm thành phố Sóc Trăng, khi T đi đến trước cửa hàng bán vật liệu xây dựng Phước Lộc, tại số 486, đường Lý Thường Kiệt, phường 4, thành phố Sóc Trăng do anh Trương Hoàng Nguyên là chủ sở hữu thì nhìn thấy phía bên trong nhà kho cửa hàng vật liệu xây dựng có để 01 (một) chiếc xe đẩy được làm bằng gỗ đã được khóa cửa lại, T quan sát xung quanh thấy không có người trông giữ, cho nên nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe đem đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Với ý định như vậy, T đã nhặt một cục đá gần đó để đập ổ khóa cửa, sau khi đập và mở được ổ khóa cửa, T đã đi vào bên trong lấy trộm chiếc xe đẩy và một mình kéo về để tại khu vực bến đò chợ Mỹ Phương, phường 1, thành phố Sóc Trăng để tìm người bán nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ chiếc xe và mời T về làm việc.

Tại kết luận định giá tài sản số 44, ngày 16 tháng 04 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sóc Trăng, kết luận: 01 (một) chiếc xe đẩy thùng gỗ, ngang 80cm, dài 1,8 mét, cán xe được làm bằng sắt 6, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 80%, có giá 2.880.000 đồng.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 27 tháng 03 năm 2019, Danh T một mình đi bộ từ bến đò khu vực chợ trung tâm thành phố Sóc Trăng đi trên tuyến đường Lý Thường Kiệt, phường 4, thành phố Sóc Trăng với ý định tìm tài sản của người khác lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Với ý định như vậy, khi T đi đến trước nhà đường Lý Thường Kiệt, khóm 1, phường 4, thành phố Sóc Trăng do anh Triệu T làm chủ sở hữu thì T nhìn thấy nhà đang được xây dựng, phía bên ngoài nhà không có cửa rào, cho nên T nảy sinh ý định đi vào bên trong tìm tài sản lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Với ý định như vậy, T đã lén lút đi vào bên trong khu vực nhà đang được xây dựng và đã lấy trộm được 01 cái mô tơ điện; 01 máy khoan bê tông và 01 máy cắt cầm tay của thuộc quyền sở hữu của anh Võ Ngọc L là chủ công trình xây dựng nhà cho anh Triệu Tám để lại để thi công xây dựng nhà. Sau khi lấy được tài sản T tiếp tục nhặt lấy 01 cái vỏ được làm bằng nylon gần đó rồi bỏ tất cả tài sản vào giỏ xách rồi đi ra bên ngoài và đem số tài sản trộm cắp được cất giấu trong ngôi nhà hoang tại khu vực bến đò trung tâm chợ Sóc Trăng, phường 1, thành phố Sóc Trăng. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày thì T gặp Nguyễn Hoàng K và T kêu K đem số tài sản này đi bán rồi T sẽ cho tiền K tiêu xài cá nhân thì K đồng ý đi bán giúp cho T. T đã đưa cho K đem đi bán 01 máy khoan bê tông cho một người đàn ông không biết họ tên và địa chỉ cụ thể với giá 600.000 đồng, còn cái mô tơ K đem bán cho chị Trần Thị Diễm Thúy với giá 190.000 đồng, còn T thì lấy cái máy cắt cầm tay bán cho anh Trần Quốc Việt (Việt) với giá 150.000 đồng, sau khi có được tiền thì T và K đã chia nhau tiêu xài cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 42, ngày 07 tháng 04 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sóc Trăng, kết luận: 01 (một) máy khoan bê tông màu xanh bạc đen, mũi khoan bằng kim loại, nhãn hiệu MAKITA, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 80%, có giá 1.877.600 đồng; 01 (một) máy cắt cầm tay màu xanh, nhãn hiệu BOSCH, không có lưỡi cắt, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 70%, có giá 595.000 đồng; 01 (một) mô tơ điện 1,5 mã lực, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng còn lại 60%, có giá 1.079.400 đồng. Tổng tài sản có giá trị là 3.552.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKS.TPST ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Danh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại tòa, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị tuyên bố bị cáo Danh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 173; g, h khoản 1 Điều 52; h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặtt ra xem xét.

Xử lý vật chứng: do chưa xác định được chủ sở hữu của xe mô tô nên đề nghị Hội đồng xét xử giao trả lại Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng xử lý theo quy định pháp luật: 01 (một) xe mô tô mang biển số 59Z2-077.63

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với việc vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai làm rõ trong hồ sơ vụ án, không trở ngại đến việc bồi thường thiệt hại, tính quyết định hình phạt. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với người này.

[3].Tại phiên tòa bị cáo Danh T khai nhận: Bị cáo nghiện ma túy, vì muốn có tiền phục vụ cho nhu cầu cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 20 tháng 02 năm 2019 đến ngày 27 tháng 03 năm 2019, bị cáo nhiều lần lén lút chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau: Lần thứ nhất: Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 20 tháng 02 năm 2019, bị cáo đã lén lút lấy trộm 01 (một) cây mai trước nhà số NL2-A09, khu dân cư Sáng Quang, đường Nguyễn Văn Linh, khóm 6, phường 2, thành phố Sóc Trăng do ông Trần Hữu T là chủ sở hữu có giá trị là 700.000 đồng. Lần thứ hai: Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 13 tháng 03 năm 2019, bị cáo lén lút lấy 01 (một) chiếc xe đẩy được làm bằng gỗ trong nhà kho cửa hàng bán vật liệu xây dựng Phước Lộc, tại số 486, đường Lý Thường Kiệt, phường 4, thành phố Sóc Trăng do ông Trương Hoàng Nguyên làm chủ có giá trị là 2.880.000 đồng. Lần thứ ba: Vào khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 27 tháng 03 năm 2019, bị cáo lén lút lấy 01 cái mô tơ điện; 01 máy khoan bê tông và 01 máy cắt cầm tay tại nhà số 262, đường Lý Thường Kiệt, khóm 1, phường 4, thành phố Sóc Trăng thuộc quyền sở hữu của ông Võ Ngọc Lưu có giá trị là 3.552.000 đồng thì bị bắt.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của người bị hại có giá trị là 7.132.000 đồng. Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, bị cáo cố ý thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Từ hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Danh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không oan cho bị cáo [4]. Xét tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 lần tiền án, vào ngày 15 tháng 08 năm 2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng tuyên phạt 06 tháng tù, về Tội trộm cắp tài sản, đến ngày 16 tháng 10 năm 2018 chấp hành xong hình phạt tù, đến lần phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích, nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm; Bị cáo có 02 lần chiếm đoạt tài sản có giá trị mỗi lần từ 2.000.000 đồng trở lên, nên bị cáo phạm tội 02 lần trở lên. Đây là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g, h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5]. Xét tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo; Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã thu giữ kịp thời trả cho bị hại nên gây thiệt hại về tài sản không lớn; Bị cáo là người dân tộc Khmer. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5].Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. [6]. Xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng là phương tiện phạm tội, nhưng chưa rõ chủ sở hữu nên kiểm sát viên đề nghị giao trả lại Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng xử lý theo quy định pháp luật: 01 (một) xe mô tô mang biển số 59Z2-077.63 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ, về hình phạt cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

[8].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; g, h khoản 1 Điều 52; h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự

1.Tuyên bố: Bị cáo Danh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

2. Xử phạt bị cáo Danh T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày ngày 28 tháng 03 năm 2019 .

3.Trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Xử lý vật chứng: Giao trả lại cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng xử lý theo quy định pháp luật: 01 (một) xe mô tô mang biển số 59Z2-077.63 5.Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng);

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 10/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về