Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 248/2019/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXX-ST ngày 04 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm: 1987.

Hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã C, huyện B, tỉnh Tây Ninh.

Địa chỉ tạm trú: Ấp T, xã G, huyện B, tỉnh Tây Ninh.

2. Bị đơn: Anh Lý Hoàng P, sinh năm: 1982.

Đa chỉ cư trú: Ấp A, xã C, huyện B, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30 tháng 7 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh P quen biết, tìm hiểu và chung sống với nhau vào năm 2001, có đăng ký kết hôn ngày 12-6-2007 tại Ủy ban nhân dân xã Long Chữ, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng chung sống nhưng tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống. Ngoài ra, anh P có quen biết với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên gây gỗ nhau, mâu thuẫn xảy ra trầm trọng vào năm 2016, chị H bỏ về nhà mẹ ruột tại Ấp T, xã G, huyện B, tỉnh Tây Ninh sống và ly thân cho đến nay. Trong thời gian ly thân hai anh chị cũng không có biện pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hiện tại cuộc sống gia đình chị không còn hạnh phúc nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mẫu thuận đã đến mức trầm trọng. Vì vậy, chị yêu cầu ly hôn với anh Lý Hoàng P.

Về con chung: Chị và anh P có 04 người con chung tên Lý Khải M, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2003 (nam); Lý Đình K, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2005 (nam); Lý Kim T, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2011 (nữ) và Lý Thị Kim Th, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2014 (nữ). Hiện 04 người con chung đang sống chung với chị. Nay ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung, chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị trình bày không có nên không đặt ra giải quyết. Đối với bị đơn - anh Lý Hoàng P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị H chung sống với nhau vào năm 2001, có đăng ký kết hôn ngày 12-6-2007 tại Ủy ban nhân dân xã Long Chữ, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên gây gỗ nhau, anh và chị H sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Trong thời gian ly thân hai anh chị cũng không có biện pháp khắc phục hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng không thể chung sống với nhau được nữa nên anh đồng ý ly hôn với chị Trần Thị H.

Về con chung: Anh và chị H có 04 người con chung tên Lý Khải M, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2003 (nam); Lý Đình K, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2005 (nam); Lý Kim T, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2011 (nữ) và Lý Thị Kim Th, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2014 (nữ). Hiện 04 người con chung đang sống chung với chị H tại Ấp T, xã G, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Nay ly hôn anh đồng ý giao con chung cho chị H nuôi, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Anh P đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và cung cấp lời khai của mình cho Tòa án nhưng không đồng ý ký tên vào các biên bản tống đạt, biên bản lấy lời khai và cũng không đến Tòa án tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử. Nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh P theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh P đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh P là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H, cho chị H được ly hôn với anh Lý Hoàng P. Về con chung: Áp dụng Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 giao 04 cháu Lý Khải M, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2003 (nam); Lý Đình K, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2005 (nam); Lý Kim T, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2011 (nữ) và Lý Thị Kim Th, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2014 (nữ) cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục, chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Trần Thị H, anh Lý Hoàng P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Chị Trần Thị H, anh Lý Hoàng P trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Lý Hoàng P được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh P theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh P trên cơ sở tự nguyện và đi đến hôn nhân từ năm 2001 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Long Chữ, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vào ngày 12 tháng 6 năm 2007 nên hôn nhân của chị H và anh P là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Theo đơn khởi kiện chị H trình bày mâu thuẫn phát sinh là do trong quá trình chung sống vợ chồng thường hay bất đồng về quan điểm sống, anh P có quen biết với người phụ nữ khác bên ngoài. Nên vợ chồng thường xuyên gây gỗ nhau, mâu thuẫn xảy ra trầm trọng vào năm 2016, chị H bỏ về nhà mẹ ruột tại Ấp T, xã G, huyện B, tỉnh Tây Ninh sống và ly thân từ đó cho đến nay. Ngoài ra, tại biên bản lấy lời khai ngày 12-8-2019, anh P trình bày vợ chồng chung sống cũng thường xuyên gây gỗ nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh P nên anh cũng đồng ý ly hôn với chị H. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, cho chị H được ly hôn với anh P là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị H và anh P có 04 người con chung tên Lý Khải M, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2003 (nam); Lý Đình K, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2005 (nam); Lý Kim T, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2011 (nữ) và Lý Thị Kim Th, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2014 (nữ). Nay ly hôn chị H yêu cầu được nuôi con chung, anh P đồng ý giao con chung cho chị H nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Minh, cháu Khôi, cháu Thoa, cháu Thy hiện đang sống chung với chị H. Mặt khác, cháu Minh, cháu Khôi và cháu Thoa đã trên 7 tu i, qua làm việc 03 cháu có nguyện vọng muốn được sống chung với chị H, đối với cháu Thy hiện còn nhỏ tu i, cần sự chăm sóc và giáo dục của người mẹ. Do vậy cần giao 04 cháu Minh, cháu Khôi, cháu Thoa, cháu Thy cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về việc cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn, chị H không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con. Dù Hội đồng xét xử đã giải thích quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn cho chị H nghe nhưng chị vẫn giữ nguyên ý kiến không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung do vậy nên ghi nhận.

Anh Lý Hoàng P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung: Chị Trần Thị H và anh Lý Hoàng P không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị Trần Thị H và anh Lý Hoàng P trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị H với anh Lý Hoàng P.

Chị Trần Thị H được ly hôn với anh Lý Hoàng P.

2. Về con chung: Giao 04 cháu Lý Khải M, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2003 (nam); Lý Đình K, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2005 (nam); Lý Kim T, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2011 (nữ) và Lý Thị Kim Th, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2014 (nữ) cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Lý Hoàng P không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu.

Anh Lý Hoàng P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Trần Thị H và anh Lý Hoàng P thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Trần Thị H và anh Lý Hoàng P trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0022089 ngày 30 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Chị H đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm Anh Lý Hoàng P không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị H có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Anh P có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về