Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 22/10/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/5/2019 về về việc tranh chấp "Ly hôn, nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/9/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30/9/2019, giữa:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1987; Địa chỉ: Thôn A, xã S, huyện V, TP. Đà Nẵng. Có mặt.

* Bị đơn: Ông Trần Trung L, sinh năm: 1982; Địa chỉ: Thôn A, xã S, huyện V, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Tôi (T) và ông Trần Trung L kết hôn với nhau năm 2009, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Định Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại thôn A, xã S, huyện V, thành phố Đà Nẵng.

Trong thời gian chung sống đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Ông L có vay mượn ở bên ngoài một số tiền lớn nhưng không báo cho tôi biết, tôi và con gái thường xuyên bị chủ nợ đến đe dọa, quấy rầy.Nay, tôi xác định về tình cảm không còn thương yêu ông L nữa, yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho tôi được ly hôn.

Về con chung: Tôi và ông L có 01 con chung tên Trần Thị Thanh H, sinh ngày 05/9/2010. Ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi con và yêu cầu ông Trần Trung L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: i và ông Trần Trung L không có tài sản chung và cũng không ai nợ nần vợ chồng tôi.

* Đối với bị đơn - ông Trần Trung L: Mặc dù đã được Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để trình bày ý kiến, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không có lời khai.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụán, việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụán cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án là tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn, nuôi con của bà Nguyễn Thị Thanh T đối với ông Trần Trung L. Xử cho bà Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn ông Trần Trung L, giao con chung là Trần Thị Thanh H, sinh ngày 05/9/2010 cho bà Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Trần Trung L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Bên không nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thanh T xác định không có nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị Thanh T khởi kiện vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc tranh chấp "Ly hôn, nuôi con" đối với ông Trần Trung L; Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang đã thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo trình tự tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án được quy định tại Điều 191, Điều 195 và khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Tại phiên tòa, bị đơn ông Trần Trung L vắng mặt lần thứ 2 nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung: Bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Trần Trung L kết hôn với nhau vào năm 2009, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện có thời gian tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Định Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Ông L có vay mượn tiền ở bên ngoài xã hội một số tiền lớn chưa trả nhưng không báo cho bà biết, nên bà và con gái thường xuyên bị chủ nợ đến nhà đe dọa, quấy rầy. Nay, bà xác định về tình cảm không còn thương yêu ông L nữa, yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết được ly hôn.

Xét yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Nguyễn Thị Thanh T với ông Trần Trung L, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong thời gian chung sống giữa vợ chồng bà T và ông L không có tiếng nói chung, phát sinh từ mâu thuẩn về kinh tế. Ông L không lo tu chí làm ăn, vay mượn tiền của nhiều người chưa trả nên họ đến nhà gây áp lực về tinh thần cho mẹ con bà. Mặc dù ông bà cũng đã nhiều lần cố gắng để hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không đạt được kết quả. Vợ chồng không còn yêu thương, quý trọng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Mỗi người sống mỗi nơi và không ai có trách nhiệm với ai.

Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông L đều vắng mặt không có lý do, điều đó thể hiện ông L cũng không có thiện chí hàn gắn lại lại tình cảm với bà T.

Tại biên bản xác minh ngày 26/6/2019 của Tòa án thì ông Trần Trung L có đăng ký tạm trú tại thôn A, xã S, huyện V, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống tại địa phương vợ chồng bà T ông L có xảy ra mâu thuẫn cãi vả, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông L thường chơi bời, rượu chè.

Xét thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà T và ông L đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên HĐXX thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Nguyễn Thị Thanh T đối với ông Trần Trung L là phù hợp với Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà T xác định bà và ông L có 01 con chung tên là Trần Thị Thanh H, sinh ngày 05/9/2010. Ly hôn, bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thanh T về việc được nuôi con chung thì thấy: Hiện tại, cháu H sinh sống cùng bà Nguyễn Thị Thanh T, mặt khác nguyện vọng của cháu H cũng mong muốn được ở cùng bà T thuận tiện trong việc đưa đón đi học và chăm sóc nuôi dưỡng. Vì vậy, để không làm xáo trộn tâm lý cũng như ảnh hưởng việc chăm sóc, học hành của cháu, HĐXX thấy cần giao cháu Trần Thị Thanh H, sinh ngày 05/9/2010 cho bà Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng, ông Trần Trung L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Bên không nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thanh T xác định ông và ông Trần Trung L không có tài sản chung và cũng không nợ nần của ai nên HĐXX không đề cập.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[5] Án phí hôn nhân gia đình bà Nguyễn Thị Thanh T phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều 227, Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh T đối với ông Trần Trung L về việc ly hôn. Tuyên xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn ông Trần Trung L.

2.Về con chung: Giao bà Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trần Thị Thanh H, sinh ngày 05/9/2010. Ông Trần Trung L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 23/11/2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Bên không nuôi con vẫn thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con theo quy định của pháp luật.

3.Án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002269 ngày 10/5/22019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Án phí cấp dưỡng nuôi con ông Trần Trung L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Án xử sơ thẩm, nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về