Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 03/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2019, về việc tranh chấp: “Ly hôn”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thanh T, sinh năm 1973

Địa chỉ: khóm BK 7, phường BK, thành phố LX, tỉnh An Giang (Có mặt)

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trần Tiến V - Văn phòng Luật sư Tiến Vinh thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Lê Thị Thanh T. (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Lê Quang L, sinh năm 1965

Địa chỉ: khóm BK 3, phường BK, thành phố LX, tỉnh An Giang.

Nơi ở hiện nay: đường ĐBP, khóm 4, phường ML, thành phố LX, tỉnh An Giang (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị Thanh T trình bày: Chị và anh Lê Quang L tự quen biết, tìm hiểu và đi đến hôn nhân, anh chị không có tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 108, quyển số 01/2014 ngày 20/8/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và anh chị cũng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Nay, tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với anh Lê Quang L.

+ Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Lê Quang K, sinh ngày 05/02/2010, hiện đang sống cùng với chị T. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và chị không yêu cầu anh L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

+ Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Phần trình bày của bị đơn anh Lê Quang L: Vắng mặt suốt trong quá trình giải quyết đối với vụ án nên không có ý kiến trình bày Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Thanh T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn anh Lê Quang L được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không tham dự phiên tòa.

Tại phiên tòa vị luật sư Trần Tiến V đưa ra các quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn chị Lê Thị Thanh T và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, về hôn nhân cho chị T ly hôn với anh L, về con chung do hiện nay chị T đang nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nên sau khi ly hôn quyết định cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và chị T không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không có nên đề nghị không xem xét, giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa chị Lê Thị Thanh T với anh Lê Quang L, về quan hệ con chung Lê Quang K, sinh ngày 05/02/2010 hiện con chung đang được chị T nuôi dưỡng ổn định và cháu K có nguyện vọng muốn sống cùng với mẹ nên chấp nhận yêu cầu của chị T sau khi ly hôn giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng và chị T không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, giải quyết.Về quan hệ tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của vị luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn chị Lê Thị Thanh T và Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Lê Quang L mặc dù được tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng anh L vẫn không tham dự phiên tòa nên vụ án được tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền: Chị Lê Thị Thanh T khởi kiện xin ly hôn với anh Lê Quang L đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và ý kiến trình bày tại phiên tòa, chị Lê Thị Thanh T có ý kiến trình bày chị và anh Lê Quang L tự quen biết, tìm hiểu và đi đến hôn nhân, anh chị không có tổ chức đám cưới nhưng năm 2014, chị T và anh L có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Bình Khánh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cấp giấy kết hôn số 108, quyển số 01/2014 ngày 20/8/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thể hàn gắn và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay.

Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù anh Lê Quang L được tống đạt các văn bản nhưng anh L không đến Tòa án cũng như không có ý kiến đối với việc chị T xin ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy, trong cuộc sống hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện chị T không đồng ý tiếp tục chung sống cùng với anh L, còn anh L không có ý kiến trình bày, hôn nhân giữa chị T với anh L không còn tồn tại trên thực tế từ năm 2015 cho đến nay, giữa vợ chồng không còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau, cũng như không có giải pháp nhằm hàn gắn, duy trì cuộc hôn nhân. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Thanh T và anh Lê Quang L.

[4] Về con chung: Nguyên đơn chị T trình bày và cung cấp giấy khai sinh thể hiện giữa chị T và anh Lê Quang L chung sống với nhau có 01 con chung tên Lê Quang K, sinh ngày 05/02/2010, Hội đồng xét xử nhận thấy cháu K chưa thành niên và đang được chị T chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp, cuộc sống của cháu đã ổn định. Vì vậy, nhằm ổn định cuộc sống của cháu K không bị ảnh hưởng tâm sinh lý của việc cha, mẹ ly hôn nên chị T yêu cầu tiếp tục được nuôi dưỡng con chung là chính đáng và phù hợp với nguyện vọng của cháu K mong muốn sống cùng với mẹ tại biên bản ngày 08/4/2019, nên yêu cầu nuôi dưỡng con chung của chị T là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp thuận. Đối với việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, anh L không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định, tuy nhiên chị T xác định không yêu cầu anh L cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị T trình bày không có, không tranh chấp và không yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng anh L vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị T phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 143; khoản 1 Điều 146; khoản 4 Điều 147; Điều 186; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 232; điểm b khoản 1 Điều 238; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Thanh T đối với anh Lê Quang L

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Thanh T đối với anh Lê Quang L.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Sau khi ly hôn giao con chung Lê Quang K, sinh ngày 05/02/2010 cho chị Lê Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Lê Quang L không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị T không có yêu cầu 2.3. Chị T phải tạo điều kiện cho anh L trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng và nuôi con chung không cố định.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm:

4.1. Chị Lê Thị Thanh T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010779 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên ngày 27/12/2018. Chị T đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4.2. Anh L không phải nộp tiền án phí sơ thẩm.

Chị Lê Thị Thanh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng, anh Lê Quang L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư ngụ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về