Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 16/01/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày  16  tháng  01  năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 380/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 08 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6262/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2018 giữa các đương sự:

1.  Nguyên đơn: Bà Lê Thị Quỳnh N, sinh năm 1998

Địa chỉ: 7/25C Ấp A, xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.  Bị đơn: Ông Trần Thanh H (Tran H Thanh), sinh năm 1996

Địa chỉ: Charlotte, NC 28227, USA

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17/7/2018 và bản tự khai, nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N trình bày:

Bà và ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 14 ngày 07/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện C,Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được 01 tuần ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) quay trở về Mỹ còn bà ở Việt Nam. Thời gian đầu hai bên vẫn còn liên lạc với nhau khoảng vài tháng, sau đó vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm, không tin tưởng nhau. Bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể tiếp tục nên yêu cầu ly hôn vớiông Trần Thanh H (Tran H Thanh).

Về con chung: không có

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại Đơn tường trình ngày 21/11/2018 của bị đơn ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) được Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hoa Kỳ chứng nhận hợp pháp hóa lãnh sự ngày 07/12/2018 có nội dung như sau:

Ông và bà Lê Thị Quỳnh N kết hôn với nhau vào năm 2017. Sau khi đăng ký kết hôn vợ chồng chung sống được một tuần thì ông quay trở lại Hoa Kỳ. Thời gian đầu vợ chồng vẫn giữ liên lạc qua điện thoại và internet được 5-6 tháng. Sau đó giữa hai bên bắt đầu xảy ra cãi vã, vợ chồng ngày càng xa cách. ông đồng ý ly hôn với bà Lê Thị Quỳnh N.

Về con chung: không có.

Về tài sản chung và nợ chung : không có. 

Nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N, bị đơn ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục tại phiên tòa .

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Lê Thị Quỳnh N được ly hôn ông Trần Thanh H (Tran H Thanh). Con chung: không có. Tài sản chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) cư trú tại Hoa Kỳ; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N, bị đơn ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

 [2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Lê Thị Quỳnh N và ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2017, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 14 ngày 07/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện C,Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà Lê Thị Quỳnh N, sau khi đăng ký kết hôn vợ chồng chung sống với nhau được 1 tuần thì ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) quay trở về Hoa Kỳ còn bà ở lại Việt Nam. Thời gian đầu vợ chồng có liên lạc với nhau khoảng vài tháng, sau đó vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm, không tin tưởng nhau. Lời khai ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) cũng xác nhận giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, cãi vã. Bà N xác định không còn tình cảm với chồng, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa đôi bên của bà N là có căn cứ chấp nhận.

Về con chung: không có

Về tài sản chung và nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật phí và lệ phí;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Quỳnh N;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Quỳnh N được ly hôn ông Trần Thanh

H (Tran H Thanh).

Giấy chứng nhận kết hôn số 14 ngày 07/3/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh,Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Lê Thị Quỳnh N nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà N đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0049263 ngày 03/8/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà N đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Lê Thị Quỳnh N và bị đơn ông Trần Thanh H (Tran H Thanh); bà Lê Thị Quỳnh N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Trần Thanh H (Tran H Thanh) được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 16/01/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về