Bản án 44/2018/HSST ngày 12/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 44/2018/HSST NGÀY 12/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2018/HSST ngày 12 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Văn N, sinh năm 1979 tại tỉnh Nam Định.

Nơi đăng ký hộ khẩu: Số 3/36 đường A, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 21/9 đường B, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn A, sinh năm 1954 và bà Trần Thị T, sinh năm 1958; vợ: Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1982; có 02 con sinh năm 2006 và 2011; tiền án: Ngày 27-9-2012, Toà án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản chiếm đoạt trị giá trên 2.000.000 đồng, ra trại ngày 30-9-2013), ngày 28-9-2015, Toà án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản chiếm đoạt trị giá dưới 2.000.000 đồng, ra trại ngày 30-11-2016); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26-5-2008, Toà án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 33 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, ra trại ngày 12-6-2010; tạm giữ từ ngày 22-11-2017 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Nam Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22-11-2017, tổ công tác Công an phường Thống Nhất, thành phố Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 115 đường V, phường C, thành phố N phát hiện Trần Văn N đi xe máy BKS: 21V3-X một mình có biểu hiện nghi vấn, tiến hành kiểm tra tổ công tác đã thu giữ 01 gói nhỏ N thả từ trên tay trái xuống đất, kiểm tra gói nhỏ thu giữ ngoài gói bằng giấy bạc màu trắng trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (N khai là heroine). Tổ công tác đã mời người làm chứng, thu giữ, niêm phong gói ma tuý trên và đưa N về trụ sở Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của N chiếc xe máy.

Bản kết luận giám định số 915/GĐKTHS Ngày 24-11-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Vật chứng thu giữ là chất ma tuý; loại ma tuý: Heroine; khối lượng mẫu: 0,113 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn N đã khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 22-11-2017, N đi xe máy BKS: 21V3-X từ chỗ làm khu vực phường T, thành phố N đến khu vực gầm cầu Đ, xã N, thành phố N mua của một người phụ nữ không rõ căn cước lý lịch 50.000 đồng 01 gói heroine về để sử dụng, khi đi đến khu vực trước cửa số nhà 115 đường V, phường C, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ.

Đối với đối tượng đã bán gói ma tuý cho N và chiếc xe máy BKS: 21V3-X tạm giữ của N, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận, nên cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nam Định tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Bản cáo trạng số 77/CT-VKSTPNĐ ngày 12 tháng 02 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình và khai nguyên nhân bị cáo phạm tội do bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Văn N về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc Hội khoá 14; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: xử lý số vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22-11-2017, Trần Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,113 gam heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ tại khu vực trước cửa số nhà 115 đường V, phường C, thành phố N.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản về việc bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo N có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xoá án tích. Bản án năm 2012 tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá trên 02 triệu đồng. Bản án năm 2015 tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá dưới 02 triệu đồng. Bản án năm 2012 được xem xét là dấu hiệu: “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” để xác định cấu thành tội phạm của lần phạm tội năm 2015 và không được tính để xác định tái phạm nên lần phạm tội này của bị cáo chỉ thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự theo qui định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

4.3. Về hình phạt:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đối chiếu với các qui định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Xét hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” qui định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 nhẹ hơn so với khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình năm 1999, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc Hội khoá 14 áp dụng các quy định có lợi cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy bị thu giữ trong phong bì niêm phong số 915/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[7] Án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc Hội khoá 14; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 1 Điều 194; điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999:

- Xử phạt bị cáo Trần Văn N 30 (ba mươi) tháng tù.

- Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 22-11-2017.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy số ma Túy có trong phong bì niêm phong số 915/GĐKTHS.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Trần Văn N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Áp dụng Điều 26 Luật thi hành án dân sự: Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HSST ngày 12/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về