Bản án 44/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 44/2017/HSST NGÀY 26/10/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2017/HSST, ngày 04 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Lý Ngọc K; sinh ngày 07 tháng 6 năm 1987; tại: Huyện T, tỉnh Lạng Sơn.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 8/12; con ông: Lý Tiến L và bà Lý Thị T; vợ: Trịnh Thị B - sinh năm 1991; con: Có 01 con sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 29/7/2017 cho đến nay; có mặt.

- Người bị hại: Ông Hoàng Văn N; sinh năm: 1943. Địa chỉ: Thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Hoàng Văn N: Bà Lý Thị U; sinh năm: 1966. Địa chỉ: Thôn K, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Duy L; sinh năm 1989. Địa chỉ: Khu 4, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lý Ngọc K bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 19 giờ, ngày 27/7/2017 Lý Ngọc K đang đi bừa ruộng ở phía sau nhà ông Hoàng Văn N là người cùng thôn K, xã Đ, huyện T. Sau khi bừa ruộng xong K mang 02 bánh xe Công nông vào nhà ông N gửi. Khi mang vào gửi K thấy ông N ở trong nhà ăn cơm, K có bảo cho cháu gửi hai bánh xe và vào trong nhà bếp rửa chân tay. Sau khi rửa chân tay xong K thấy tại nhà bếp không có ai nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. K lập tức đi vào giường của ông N lật chiếu đầu giường nhưng không thấy có gì và tiếp tục lật chiếu ở cuối giường thấy có 01 ví giả da màu đen ngay lập tức K lấy ví đút vào cạp quần rồi đi về nhà mang ví ra kiểm tra thấy bên trong ví có 14 tờ tiền mệnh giá 200.000đ và một số tiền lẻ gồm các mệnh giá 50.000đ, 10.000đ, 5.000đ, 1.000đ (Số tiền này K không kiểm đếm) sau đó K cất tiền vào dưới gối còn chiếc ví thì mang đi đốt sau đó sang nhà mẹ đẻ ăn cơm; sau khi ăn cơm xong K về nhà ngủ. Đến khoảng 10 giờ sáng ngày 28/7/2017 K lấy tiền ra cất 1.000.000đ (gồm 5 tờ mệnh giá 200.000đ cho vào túi nilon màu đỏ chôn dưới chạn bát trong nhà bếp, số tiền lẻ K cất vào dưới gối. Còn K lấy 1.850.000d đi ra chợ thị trấn T mua ma túy 1.300.000đ (Trong đó K mua ma túy với Trần Phi H, sinh năm 1957, trú tại: Khu 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh Lạng Sơn 2 lần với tổng số tiền 500.000đ và mua với 02 thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ ở ngã tư Máy Đèn thuộc khu 3, thị trấn Thất Khê 3 lần với tổng số tiền 800.000đ), trả cho Hoàng Duy L (sinh năm 1989, trú tại khu 4, thị trấn T) 200.000đ. Còn số tiền 350.000đ K chi tiêu ăn uống cá nhân hết.

Quá trình điều tra Lý Ngọc K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân và Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm tang vật. Kết quả đã thu giữ được 1.000.000đ chôn dưới chạn bát và thu giữ được 45.000đ ở dưới gối trong phòng ngủ của Lý Ngọc K.

Quá trình thu thập tài liệu chứng cứ thì theo lời khai ông Hoàng Văn N khai mất số tiền hơn 3.900.000đ. Nhưng qua thu thập chứng minh không chứng minh được ông N mất số tiền 3.900.000đ. Do vậy căn cứ tài liệu đã thu thập được và chứng minh xác định số tiền ông N bị mất có tổng số tiền là 2.895.000đ.

Theo lời khai của Lý Ngọc K khai nhận được mua ma túy với Trần Phi H qua điều tra thấy Trần Phi H đã bị khởi tố trong vụ án khác về tội mua bán trái phép chất ma túy, do vậy không đề cập xem xét xử lý trong vụ án này (hiện nay Trần Phi H đã chết).

Đối với Hoàng Duy L theo lời khai của K được trả cho L 200.000đ nhưng hiện nay L không có mặt tại địa phương nên không thể điều tra làm rõ được.

Về vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra xét thấy việc trả lại tài sản không ảnh hưởng đến quá trình điều tra, xét xử vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định đã ra Quyết định xử lý vật chứng và trả lại số tiền 1.045.000đ (Một triệu không trăm bốn mươi năm nghìn đồng) cho bà Lý Thị U theo ủy quyền của ông N.

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Ngọc K giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra về hành vi trộm cắp tài sản và khẳng định bị truy tố, xét xử về tội trộm cắp tài sản là đúng người đúng tội, không bị oan. Người đại diện hợp pháp của người bị hại ông Hoàng Văn N - bà Lý Thị U khai: Theo ủy quyền của ông N, bà yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho ông N số tiền 1.850.000đ. (Do trước đó cơ quan điều tra đã trả lại cho gia đình bà số tiền 1.045.000đ bị cáo trộm cắp của ông N).

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lý Ngọc K đồng ý bồi thường cho ông Hoàng Văn N số tiền 1.850.000đ.

Tại bản Cáo trạng số: 36/KSĐT-KT, ngày 04/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lý Ngọc K về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Ngọc K phạm tội “trộm cắp tài sản”

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999; đề nghị xử phạt bị cáo Lý Ngọc K từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung vì bị cáo không có khả năng thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự và Điều 584, Điều 585 của Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại là 1.850.000đ.

Vật chứng: Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định đã trả lại số tiền 1.045.000đ (Một triệu không trăm bốn mươi năm nghìn đồng) cho bà Lý Thị U theo ủy quyền của ông N.

Phần tranh luận: Không ai có tranh luận gì.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.

XÉT THẤY

Bị cáo đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, cụ thể: Khoảng 19 giờ, ngày 27/7/2017 Lý Ngọc K đi bừa ruộng ở phía sau nhà ông Hoàng Văn N là người cùng thôn K, xã Đ, huyện T. Sau khi bừa ruộng xong K mang 02 bánh xe công nông vào nhà ông N gửi và rửa chân tay. Sau khi rửa chân tay xong K thấy tại nhà bếp không có ai nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. K lập tức đi vào giường của ông N lật chiếu ở đầu giường nhưng không thấy có gì, K tiếp tục lật chiếu ở cuối giường thấy có 01 ví giả da màu đen ngay lập tức K lấy ví đút vào cạp quần rồi đi về nhà mang ví ra kiểm tra thấy bên trong ví có 14 tờ tiền mệnh giá 200.000đ và một số tiền lẻ gồm các mệnh giá 50.000đ; 10.000đ; 5.000đ; 1.000đ. Tổng số tiền bị cáo trộm được 2.895.000đ. Sau đó K lấy 1.850.000đ mua ma túy, trả nợ chi tiêu ăn uống cá nhân hết 1.850.000đ, còn 1.045.000d chưa kịp tiêu thì bị bắt và thu giữ.

Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lý Ngọc K phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 1 38 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng số: 36/KSĐT-KT, ngày 04 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lý Ngọc K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, đồng thời hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận bị cáo có hành vi trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo K, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại, đã nảy sinh ý định lén lút chiếm đoạt tài sản 2.895.000VNĐ, mục đích mang đi mua ma túy sử dụng và tiêu xài, ăn chơi, phục vụ nhu cầu bản thân, lợi dụng ông Hoàng Văn N đang ăn cơm ở dưới bếp không để ý bị cáo đã lẻn vào trong buồng ngủ của ông Hoàng Văn N lục soát trộm cắp tài sản, bị cáo đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt tài sản của ông N 2.895.000VNĐ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó gây mất trật tự trị an của địa phương, gây bất bình trong dư luận xã hội. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lười lao động, mắc vào tệ nạn xã hội, mục đích phục vụ lợi ích sử dụng ma túy và tiêu xài của bản thân nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì thế bị cáo phải chịu hình phạt nhất định tương xứng với hành vi phạm tội đã thực hiện nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Để cá thể hóa hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt.

Về nhân thân: Bị cáo Lý Ngọc K nghiện chất ma túy, nhân thân xấu, (Đã từng có 01 tiền án vào ngày 27/10/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử 30 tháng tù về tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh Quốc Gia, nay đã được xóa án tích). Do vậy, lần phạm tội này bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lý Ngọc K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Lý Ngọc K không được áp dụng phạm tội lần đầu, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại các điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử thấy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ, nhưng xét về nhân thân bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà còn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên cân cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh đối với bị cáo là có căn cứ nên chấp nhận. Hội đồng xét xử sẽ quyết định hình phạt tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính trừng trị, răn đe và phòng ngừa.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có tài sản riêng, hiện nay sống phụ thuộc vào bố mẹ, gia đình.

Về vật chứng: Xét thấy cơ quan Cảnh sát điều tra huyện Tràng Định đã trao trả số tiền 1.045.000đ bị cáo trộm cắp được cho người bị hại nên không xem xét giải quyết.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 42 của Bộ luật hình sự; Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 357; khoản 1 Điều 585; khoản 1 Điều 586 và khoản 1 Điều 589 của Bộ luật dân sự.

Việc bị cáo và người bị hại đã thỏa thuận với nhau tại phiên tòa về mức bồi thường là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội do đó cần công nhận sự thỏa thuận này, theo đó bị cáo phải bồi thường cho người bị hại tiếp 1.850.000đ.

Về án phí: Bị cáo Lý Ngọc K phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 án phí dân sự theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lý Ngọc K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999;

Xử phạt bị cáo Lý Ngọc K: 01 (Một) năm tù, thời hạn tính từ ngày 29 tháng 7 năm 2017.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 42 của Bộ luật hình sự; Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 357; khoản 1 Điều 585; khoản 1 Điều 586 và khoản 1 Điều 589 của Bộ luật dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận giữa người đại diện hợp pháp của bị hại bà Lý Thị U và bị cáo Lý Ngọc K về việc bị cáo phải có trách nhiệm trả tiếp cho ông Hoàng Văn N 1,850.000đ (Một triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 1,2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; khoản 8 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lý Ngọc K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

376
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:44/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về