Bản án 436/2021/HSST ngày 15/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 436/2021/HSST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 425/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 450/2021/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Văn Đ, tên gọi khác: không. Sinh ngày 07/11/1987. ĐKHKTT: Tổ 01, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Đ1; Con bà Nguyễn Thị L; Vợ 1 Nguyễn Thị Ngọc L1, (Đã ly hôn); Vợ 2 là Ma Thị H; Có 03 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2021). Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Ma Thị H, sinh năm 1997, vợ bị cáo. Có mặt ĐKHKTT: Tổ 01, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

* Người làm chứng: Anh Nông Đức H1, sinh năm 1987. Vắng mặt Trú tại: Xóm C xã P, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên

* Người chứng kiến: Anh Trịnh Huy H2, sinh năm 1993. Vắng mặt Trú tại: Tổ 01, phường Q, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 15 phút ngày 03/7/2021, tổ công tác của Công an phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra trên địa bàn phường, khi đến khu vực cây xăng thuộc tổ 05, phường Quang Vinh thì phát hiện 01 nam thanh niên đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20L9 - 4952 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì nam thanh niên khai tên là Trần Văn Đ. Quá trình kiểm tra, Đ đã tự giác giao nộp từ trong lòng bàn tay trái Đ đang cầm 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa một viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng, Đ khai nhận đó là ma túy hồng phiến và ma túy đá, do Đ mua mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ, niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ của Đ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 20L9 - 4952 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng (Bị vỡ màn hình), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Đ có khối lượng là 0,140 gam, lấy 0,039 gam niêm phong vào bì ký hiệu A1 gửi giám định, còn lại 0,101 gam niêm phong vào bì ký hiệu A2 để lưu kho; Số viên nén màu hồng có khối lượng là 0,099 gam. Lấy toàn bộ số viên nén màu hồng niêm phong vào bì ký hiệu A3 gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 1122/KL-KTHS ngày 12/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,140 gam. Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu A3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,099 gam Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn Đ khai nhận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/7/2021 Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20L9 - 4952 đi tiếp thị bánh kẹo tại khu vực chợ Sư phạm thuộc phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên. Lúc này Đ nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng cho bản thân, do bạn bè giới thiệu cho số điện thoại nên Đ đã sử dụng điện thoại của mình vào mạng xã hội Zalo gọi điện cho một người phụ nữ tên Hà qua ứng dụng Zalo có tên "Ha xinh" để hỏi mua ma túy. Người phụ nữ này đồng ý và hẹn Đ đến khu vực phía sau cây xăng thuộc phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên để lấy ma túy. Tại đây, Đ gặp Hà và một người nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ, Đ đưa cho người nam giới số tiền 300.000 đồng thì nhận lại từ người đó 01 gói ma túy được gói bằng túi nilon màu trắng, bên trong chứa 01 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng. Mua xong, Đ cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 03 bì niêm phong kí hiệu A1, A2, A3 bên trong chứa ma túy là mẫu hoàn lại sau giám định, vỏ bao gói mẫu và mẫu lưu kho. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen.

01 xe mô tô biển kiểm soát 20L9 - 4952. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô này do anh Nông Đức H1, sinh năm 1987, trú tại Xóm C xã P, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên là người đứng tên đăng ký xe. Năm 2012 anh H1 bán chiếc xe mô tô này cho một người mua bán xe cũ (anh H1 không nhớ họ tên địa chỉ). Khoảng tháng 3/2021 chị Ma Thị H (là vợ của Trần Văn Đ) mua chiếc xe mô tô nêu trên là phương tiện đi lại.

Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 442/CT-VKSNDTPTN, ngày 09/8/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Trần Văn Đ khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã mô tả. Bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan, sai.

- Chị Ma Thị H khai: Chị mua chiếc xe mô tô BKS: 20L9 – 4952 của một người không quen biết từ tháng 3/2021với giá 3.000.000đ. Ngày 03/7/2021, bị cáo mượn xe của chị để đi làm, chị Hằng không biết việc Đ đã sử dụng chiếc xe này để đi mua ma túy. Chị đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe cho chị.

- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Trần Văn Đ từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 02 bì niêm phong A1, A2, A3 bên trong chứa ma túy; Hoàn trả cho chị Ma Thi Hằng 01 xe mô tô biển kiểm soát 20L9 – 4952; Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng; Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen.

+ Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 11 giờ 15 phút ngày 03/7/2021 tại khu vực tổ 05, phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên, Trần Văn Đ đang có hành vi tàng trữ 0,239 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Trần Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Nội dung điều luật như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…c, Methamphetamine ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam" [3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Mức hình phạt vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[4]. Vật chứng vụ án: Đối với 03 bì niêm phong A1, A2, A3 bên trong chứa ma túy cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy cần tịch thu sung quỹ; Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 20L9 – 4952 thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra xác định là của chị Ma Thị H, chị Hằng không biết việc bị cáo sử dụng xe của chị để đi mua ma túy nên Hội đồng xét xử trả lại cho chị Hằng.

[5]. Về các vấn đề khác: Bị cáo phải nộp án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vê nguôn gôc số Heroine bị thu giữ Trần Văn Đ khai nhận mua của một người phụ nữ tên Hà tại khu vực phường Quang Vinh, thành phố Thái Nguyên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt Trần Văn Đ 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/7/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47; Điều 48 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu A1có ghi hoàn trả vỏ bao gói mẫu A1và 01 bì niêm phong ký hiệu A3có ghi hoàn trả vỏ bao gói mẫu A3, mặt sau hai phong bì có dấu của phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Vũ Quang Huy, Trương Đăng Tam; 01 bì niêm phong ký hiệu A2 có ghi 0,101g chất tinh thể mầu trắng lưu kho, mặt sau phong bì có dấu của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thái Nguyên và chữ ký của Thân Văn T, Nguyễn Đức C, Nguyễn Thị T1, Trịnh Huy H2, Trần Văn Đ, Ma Đình Tr.

+ Hoàn trả cho chị Ma Thị H: xe mô tô biển kiểm soát 20L9 – 4952, mầu sơn nâu, nhãn hiệu SIMBA, số loại 100, dung tích xi lanh 97, loại xe hai bánh từ 50 -175cm3, số máy FMG83104972, số khung HS005869, xe đã qua sử dụng;

+ Tịch thu sung quỹ: 01điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, số IMEI: 359306066232008, đã qua sử dụng, vỡ màn hình;

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, số IMEI 1: 355802100895820, số IMEI 2: 355802100895838, đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 555 ngày 11/8/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án: buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 436/2021/HSST ngày 15/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:436/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về