Bản án 434/2019/HS-PT ngày 26/07/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 434/2019/HS-PT NGÀY 26/07/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 26 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2019/TLHS-PT ngày 03/01/2019 đối với bị cáo Đồng Quốc C bị xét xử sơ thẩm về tội Giết người. Do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

*  Bị cáo kháng cáo và bị kháng cáo: Đồng Quốc C, sinh ngày 30/4/1992 tại Hải Phòng; giới tính: Nam; ĐKNKTT và cư trú tại   đường H,  tổ  dân phố T, phường H, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đồng Văn Đ và bà Hoàng Thị L; có vợ là Nguyễn Thị Thu Tr; có 02 con (con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2018 đến nay; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Đăng K - Văn phòng Luật sư A, Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

* Bị hại: Trần Thế H, sinh năm 1974; ĐKNKTT tại số H, quận H, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú tại số B, phường H, quận A, thành phố Hải Phòng; (đã chết).

* Đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Phạm Thị P, sinh năm 1979 (vợ bị hại); ĐKNKTT tại số H, quận H, thành phố Hải Phòng; tạm trú tại số B, phường H, quận A, thành phố Hải Phòng (đại diện cho các con của bị hại là Trần Thị Mai H, sinh ngày 27/02/2004; Trần Thế A, sinh ngày 22/7/2008 và cháu Trần Hà M, sinh ngày 23/02/2017); có mặt.

2. Bà Bùi Thị T, sinh năm 1940 (là mẹ đẻ bị hại); cư trú tại số H, quận H, thành phố Hải Phòng (ủy quyền cho bà Phạm Thị P theo Giấy ủy quyền ngày 26/6/2018); vắng mặt.

* Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị P: Luật sư V- Công ty Luật TNHH H, Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không bị kháng nghị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nội dung tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 50’ ngày 15/5/2018, Đồng Quốc C điều khiển xe máy BKS: 16R5-A đến trụ sở Công ty TNHH đầu tư thương mại vận tải T đặt tại số 581 N, phường H, quận A, thành phố Hải Phòng do ông Trần Thế H là Giám đốc. Khi đến nơi, C gặp bà Phạm Thị P là vợ ông H đang đứng nói chuyện với ông Nguyễn Văn V nhân viên giao nhận của Công ty. C hỏi bà P ông H có nhà không thì được bà P cho biết ông H đang ngủ trong phòng. C không nói gì, đi ra chỗ bàn uống nước để túi xách trên bàn rồi mở túi, lấy con dao bầu có đặc điểm dài 35cm, lưỡi bằng kim loại dài 20cm, đã mua sẵn từ sáng sớm cùng ngày đi vào trong phòng ngủ của ông H. Khi đi vào trong phòng ngủ, thấy ông H đang nằm ngủ ở tư thế nằm ngửa trên giường, C dùng tay phải cầm dao vung lên đâm 01 nhát từ trên xuống dưới, trúng vào phần giữa bụng của ông H, ông H tỉnh dậy lật người nghiêng sang bên trái thì C dùng dao đâm nhát thứ hai vào vùng sườn bên phải. Ông H bị ngã xuống nền nhà thì C túm cổ áo ông H kéo ngồi dậy, bà P thấy vậy nói van xin C đừng đâm ông H nữa nhưng C vẫn vung dao lên đâm tiếp 01 nhát vào vùng lưng ông H. Sau khi đâm ông H, C cầm dao đi ra khỏi văn phòng Công ty, vứt dao tại bãi đất trống ở gần đó rồi ra lấy xe máy đi về nhà, nói lại việc vừa đâm ông H cho bà Hoàng Thị Liên (mẹ C) nghe. Do sợ bị người thân của ông H đến đánh trả thù nên bà Liên đã bảo C tạm lánh ra nhà bà Hoàng Thị H1 ở Yên Thông, Uông Bí, Quảng Ninh (bác dâu C). C điều khiển xe máy ra nhà bà H1, ở lại đó đến khoảng 11lh45’ cùng ngày C quay về đến Công an phường H, quận K, thành phố Hải Phòng đầu thú.

Kết quả khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra đã thu giữ một số dấu vết nghi máu, 01 con dao bầu có đặc điểm dài 35cm, lưỡi bằng kim loại dài 20cm, cán bằng gỗ hình trụ dài 15cm, mũi nhọn, một lưỡi sắc, trên hai mặt lưỡi dao có dính tạp chất màu nâu đỏ nghi máu; 01 đầu thu Camera.

Kết luận giám định pháp y số 100/2018/GĐPY ngày 25/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng (bl 101) xác định: Nạn nhân Trần Thế H có các dấu vết thương tích sau: vết thương vùng giữa bụng, đi theo chiều hướng từ trước ra sau, sâu 8,5cm, làm rách thủng mạc nối lớn và mạc treo đại tràng ngang, chạm thủng phúc mạc thành sau gây tụ máu lan tỏa quanh thận phải; vết thương thành bụng phải đi theo hướng từ trước ra sau, sâu 12cm làm rách thủng đại tràng lên tại góc gan, chạm rách bờ dưới gan phải vùng trước dưới. Bao gan mặt trước gan phải có đám rạn vỡ; vết thương vùng lưng trái đi theo hướng từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, sâu 8,5cm làm đứt khối cơ lưng to, chạm đứt bờ dưới xương sườn X trái, đứt gần rời cực dưới thận trái, thủng phúc mạc thành sau thông vào ổ bụng. 03 vết rách thủng da đều có đặc điểm hình thành do vật sắc nhọn tác động theo cơ chế đâm xuyên. Con dao thu được tại hiện trường có đặc điểm phù hợp với loại vật có khả năng gây ra được 03 vết thương nói trên. Nguyên nhân nạn nhân chết do sốc mất máu thể tối cấp.

Kết luận giám định số 43/2018/GĐSH ngày 04/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng (bl 99) xác định: Mẫu dấu vết nghi máu thu tại hiện trường, trên dao là máu của ông Trần Thế H.

Tại Cơ quan điều tra, Đồng Quốc C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên, ngoài ra C còn khai: C xin nghỉ việc tại Công ty T và chiều ngày 14/5/2018 C hẹn với ông H xuống bãi xe Đại Thọ ở phường Đông Hải 2, quận A để bàn giao lại xe và ông H thanh toán nốt tiền lương. Tuy nhiên, tại bãi xe Đại Thọ, ông H cùng với 01 thanh niên (không rõ lai lịch) cầm dao đuổi đánh C, nhưng C bỏ chạy thoát được nên không bị thương tích gì và sau đó ông H còn nhắn tin đe dọa C. Do bực tức, nên sáng ngày 15/5/2018 C đã đi mua 01 con dao bầu đến trụ sở Công ty đâm chết ông H như nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 con dao bầu dài 35cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 20cm; mẫu máu của ông Trần Thế H còn lại sau giám định; 01 túi xách màu xám đen có ghi chữ ADIDAS; 01 tờ bìa tạp chí nhãn hiệu Heritage; 01 mũ bảo hiểm loại lưỡi trai, có dòng chữ CONY BROWN; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung  màu  vàng,  có  lắp  sim  số  0983.989.664;  01  xe  mô  tô  nhãn  hiệu YAMAHA màu đỏ đen, BKS 16R5-A, chuyển Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng quản lý theo quy định.

Tại Bản án hình sự số 103/2018/HSST ngày 13/11/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo  Đồng Quốc C tù chung thân về tội Giết người, thời hạn tù từ ngày 15/5/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, việc xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị theo luật định.

Ngày 22/11/2018, Đồng Quốc C kháng cáo xin giảm hình phạt (bl 423).

Ngày 27/11/2018, bà Phạm Thị P đại diện hợp pháp người bị hại Trần Thế H kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo (bl 423).

Tại phiên tòa phúc thẩm

Bị cáo Đồng Quốc C khai nhận đã thực hiện hành vi dùng dao đâm chết ông H như nội dung Bản án sơ thẩm và bị cáo rất ân hận về việc làm của mình. Do trước đó bị cáo xin nghỉ việc và đòi ông H thanh toán nốt tiền công của C lái xe cho Công ty, nhưng C bị ông H cùng một thanh niên khác dùng dao dạng kiếm bắt quỳ xuống tại bãi xe Đại Thọ nên bị cáo quá bức xúc mới mua dao đến Công ty đâm ông H để trả thù. Bị cáo kháng cáo vì Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo quá nặng, đề nghị được giảm hình phạt cho bị cáo.

Đại diện hợp pháp của bị hại trình bày: Khi ông H bị ngã xuống đất, bà P đã van xin C đừng đâm ông H nữa, nhưng C vẫn tiếp tục đâm 01 nhát nữa đến khi ông H chết mới dừng lại, nên đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo C. Bà P xác nhận Công ty còn nợ lương bị cáo C hơn 2,5 triệu đồng và trước khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo C đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20.000.000đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu quan điểm xác định: Bị cáo Đồng Quốc C đã phạm tội Giết người có tính côn đồ theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm quy kết. Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ bồi thường khắc phục hậu quả theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp bị hại.

Người bào chữa cho bị cáo không tranh luận về tội danh và trình bày: Số tiền bị cáo yêu cầu thanh toán là số tiền bị cáo C ứng ra cho Công ty để “làm luật”, không phải tiền lương. Đề nghị xem xét hành vi của bị hại đã làm nhục và đe dọa bị cáo C trước đó làm bị cáo bị ức chế đã dẫn đến hành vi phạm tội sau này, nên mức hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo quá nặng, đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp bị hại không tranh luận về tội danh và trình bày bị cáo C phạm hai tình tiết tăng nặng là cố ý thực hiện tội phạm đến cùng và Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được quy định tại điểm e, k khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, nên đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện lời khai của bị cáo, ý kiến của người bào chữa, đại diện hợp pháp của bị hại, người tham gia tố tụng và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo Đồng Quốc C và kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại Trần Thế H đều trong hạn luật định nên được xác định là hợp lệ.

Về nội dung:

 [1] Lời khai của bị cáo Đồng Quốc C tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại CQĐT và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường; Biên bản khám nghiệm tử thi; Kết luận giám định; vật chứng thu giữ. Phù hợp với lời khai của người làm chứng Phạm Thị P, Nguyễn Văn V và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định: Khoảng 07h50’ ngày 15/5/2018, Đồng Quốc C đã cầm dao nhọn đến Công ty TNHH đầu tư thương mại T tìm gặp và đâm 03 nhát vào vùng bụng và lưng ông Trần Thế H – Giám đốc Công ty đang nằm trong phòng ngủ làm ông H bị chết. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong việc thanh toán tiền công, nhưng bị cáo C đã thực hiện hành vi giết chết ông H người nên được coi là giết người có tính chất côn đồ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 như Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Ngoài ra, tại phiên tòa đã làm rõ có việc gia đình bị cáo đã bồi thường 20.000.000đ cho đại diện hợp pháp bị hại là tình tiết giảm nhẹ và hành vi bị cáo C đâm ông H trong khi đang ngủ không thể tự vệ được là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 và điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, cần áp dụng cho bị cáo.

 [2] Xét kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại, Hội đồng xét xử phúc thẩm có nhận xét như sau:

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; đầu thú; thành khẩn khai báo nên xử phạt bị cáo mức hình phạt tù chung thân là tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo. Mặc dù bị cáo có thêm 01 tình tiết tăng nặng, nhưng bị cáo cũng có thêm 01 tình tiết giảm nhẹ hình phạt, nên không có căn cứ để tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của đại diện hợp pháp bị hại như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đồng Quốc C và kháng cáo của đại diện  hợp  pháp  bị  hại  Phạm  Thị P; giữ  nguyên  Bản  án  hình  sự  sơ  thẩm  số 103/2018/HSST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng về phần hình phạt đối với bị cáo Đồng Quốc C.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e, k khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đồng Quốc C tù chung thân về tội Giết người, thời hạn tù từ ngày 15/5/2018.

Bị cáo Đồng Đồng Quốc C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 434/2019/HS-PT ngày 26/07/2019 về tội giết người

Số hiệu:434/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về