Bản án 434/2019/DS-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng 

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 434/2019/DS-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

Ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 268/2019/TLST-DS ngày 20 tháng 06 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2019/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 09 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 121/2019/QĐHPT-ST ngày 01 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty TC TNHH MTV NHVNTV

Trụ sở: số 09 đường ĐVB, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngưi đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Phan Thị MH, sinh năm 1988 – Là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn theo văn bản ủy quyền số 1010/UQTA-VH.19 ngày 20/05/2018 (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Lư Duy A, sinh năm 1988 (vắng mặt).

Đa chỉ: 436B/42/9 Đường 3/2, Phường A, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/05/2019 và quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, đại diện uỷ quyền của nguyên đơn - bà Phan Thị MH trình bày:

Ngày 18/06/2016, TC TNHH MTV NHVNTV (sau đây gọi tắt là Công ty TCTV) và ông Lư Duy A ký hợp đồng tín dụng số 20160620-500000-3930 vay số tiền 20.540.425 đồng, lãi suất 4.58%/ tháng với mục đích tiêu dùng cá nhân. Theo thoả thuận trong Hợp đồng ông Duy A có trách nhiệm thanh toán số tiền 37.113.000 đồng (bao gồm cả gốc và lãi), trả chậm trong thời hạn 27 tháng, 26 tháng đầu mỗi tháng trả 1.342.000 đồng, tháng cuối cùng trả 2.221.000 đồng, vào ngày 01 hàng tháng và bắt đầu từ ngày 01/08/2016.

Sau khi ký hợp đồng ông Duy A không thanh toán bất kỳ khoản nào cho Công ty TCTV mặc dù được Công ty TCTV đã dùng nhiều biện pháp nhắc nhở.

Nay Công ty TCTV yêu cầu Toà án buộc ông Lư Duy A phải trả số tiền 37.113.000 đồng (Trong đó nợ gốc là 20.540.425 đồng, nợ lãi 16.572.575 đồng) một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trong quá trình Toà án giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử, Toà án đã tiến hành triệu tập ông Duy A đến Toà để tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ, hoà giải và tham gia phiên tòa nhưng ông Duy A đều vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến phản đối.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Bị đơn vắng mặt không có ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Từ giai đoạn thụ lý vụ án đến khi nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Đề nghị Toà án căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

Về nội dung: Hợp đồng tín dụng số 20160620-500000-3930 ngày 18/06/2016 được ký kết giữa Công ty TCTV và ông Duy A , việc thực hiện giao dịch trên là do các bên hoàn toàn tự nguyện nên được pháp luật bảo vệ. Quá trình thực hiện hợp đồng ông Duy A vi phạm nghĩa vụ thanh toán về tiền nợ gốc và lãi nên đề nghị Toà án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Toà án nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán tiền nợ trong hợp đồng tín dụng, có cơ sở xác định tranh chấp giữa hai bên là tranh chấp về “Hợp đồng dân sự vay tài sản” theo quy định tại Điều 463 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bị đơn đang cư trú tại Quận 10 nên tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10 theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xét văn bản ủy quyền số 1010/UQTA-VH.19 ngày 20/05/2019 của Công ty TC TNHH MTV NHVNTV là hợp pháp, nên bà Phan Thị MH có đủ tư cách đại diện nguyên đơn tham gia tố tụng tại Tòa án.

Đi diện uỷ quyền của nguyên đơn bà Phan Thị MH có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt. Ông Lư Duy A đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về yêu cầu của nguyên đơn:

n cứ Đề nghị vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng số 20160620-500000-3930 giữa Công ty TCTV và ông Lư Duy A lập ngày 18/06/2016 được giao kết hợp pháp vì có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của pháp luật.

n cứ bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ của Công ty TCTV cung cấp thể hiện Công ty TCTV đã giải ngân cho ông Duy A số tiền 20.540.425 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng ông Duy A không thanh toán bất kỳ số tiền nợ gốc và lãi kể từ ngày 01/08/2016 đến nay. Do vậy, ông Duy A vi phạm nghĩa vụ cam kết theo Đề nghị vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng đã ký và Điều 466 của Bộ luật Dân sự.

Đi với nợ gốc: Do ông Duy A vi phạm nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng nên Công ty TCTV yêu cầu Tòa án buộc ông Duy A phải thanh toán số tiền nợ gốc là 20.540.425 đồng là có cơ sở và phù hợp với Điều 463 của Bộ luật Dân sự.

Đi với tiền lãi: Các bên thỏa thuận mức lãi suất là 4.58%/tháng, việc thỏa thuận mức lãi suất giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, đồng thời không trái với quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng. Do vậy, nguyên đơn yêu cầu ông Duy A thanh toán số tiền lãi là 16.572.575 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Xét yêu cầu của Công ty TCTV yêu cầu ông Duy A phải trả số tiền trên ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy số tiền nợ trên đã lâu, nếu tiếp tục kéo dài sẽ ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, từ những phân tích trên có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc ông Duy A phải trả số tiền nợ trên một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[3]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án dân sự sơ thẩm là 1.855.650 đồng theo quy định Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 463, 466 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng;

n cứ Điều 6, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,

1. Chấp nhận yêu cầu nguyên đơn Công ty TC TNHH MTV NHVNTV về việc yêu cầu ông Lư Duy A trả nợ.

Buộc ông Lư Duy A thanh toán cho Công ty TC TNHH MTV NHVNTV số tiền 37.113.000 (Ba mươi bảy triệu, một trăm mười ba ngàn) đồng [Trong đó, nợ gốc là 20.540.425 (Hai mươi triệu, năm trăm bốn mươi ngàn, bốn trăm hai mươi lăm) đồng, nợ lãi là 16.572.575 (Mười sáu triệu, năm trăm bảy mươi hai ngàn, năm trăm bảy mươi lăm) đồng], ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bên được thi hành có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành không thi hành các khoản tiền phải nộp, thì hàng tháng phải chịu thêm số tiền lãi với mức lãi suất theo thoả thuận quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự trên số tiền còn phải thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm là 1.855.650 (Một triệu, tám trăm năm mươi năm ngàn, sáu trăm năm mươi) đồng ông Duy A chịu. Hoàn trả cho Công ty TC TNHH MTV NHVNTV số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 927.825 (Chín trăm hai mươi bảy, tám trăm hai mươi lăm) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0017478 ngày 13/06/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 434/2019/DS-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng 

Số hiệu:434/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về