Bản án 433/2019/HSST ngày 23/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 433/2019/HSST NGÀY 23/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 431/2019/HSST, ngày 29 tháng 07 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 460/2019/QĐXXST-HS ngày 08/ 8/2019 đối với bị cáo:

Bùi Thị Thùy L, sinh ngày 12/5/1982; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ T, phường TV, thành phố TN, tỉnh TN ;quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Không; chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; con ông: Bùi Ngọc Tân, sinh năm 1960 và con bà Lý Ánh Tuyết, sinh năm 1961; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ nhất; chồng: Đỗ Duy L, sinh năm 1980; con: có 03 con lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự : không, Nhân thân:

+ Tại bản án số 349/HSST ngày 21/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 20/4/2014. Chấp hành xong hình phạt bổ sung và án phí ngày 12/02/2019.

+ Ngày 05/7/2019, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ra Quyết định khởi tố vụ án số 65, khởi tố bị can số 157 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 251 BLHS.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

1.Trần Mai K, sinh năm 1956 (Vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ B, phường QT, thành phố TN, tỉnh TN.

2. Lê văn Th, sinh năm 1955 (Vắng mặt tại phiên tòa)

HKTT: Tổ B, phường QT, thành phố TN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 15 giờ ngày 17/6/2019, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN tiến hành làm nhiệm vụ tuần tra tại tổ 17, phường Quang Trung thì phát hiện 01 người phụ nữ có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, người phụ nữ tự khai tên là Bùi Thị Thùy L và tự giác lấy từ túi quần bên trái phía trước L đang mặc 01 túi nilon màu xanh bên trong có 103 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh giao nộp cho tổ công tác. L khai đó là ma túy của L mang đi bán kiếm lời và sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L đồng thời niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của L số tiền 1.900.000 đồng, 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 và Iphone 6, màu đen, đã qua sử dụng.

Hi 18 giờ 20 phút ngày 17/6/2019, thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của L tại tổ 19, phương Thịnh Đán, thành phố TN, phát hiện thu giữ 30 túi nilon màu trắng, kích thước 2x2 cm. Hồi 19 giờ 10 phút cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của L tại tổ 6, phường Tân Thịnh, thành phố TN không phát hiện thu giữ gì.

Hi 20 giờ 10 phút ngày 17/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN đã lập biên bản mở niêm phong cân 103 viên nén màu hồng có khối lượng 10,738 gam và 01 viên nén màu xanh có khối lượng 0,093 gam.

Tại bản kết luận giám định số 956 ngày 26/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Mẫu viên nén màu hồng và màu xanh thu giữ của Bùi Thị Thùy L là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 10,831 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Thị Thùy L khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên L thường đi mua bán ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Khoảng 20 giờ ngày 15/6/2019, tại khu vực khách sạn Đại Hoàng Gia, thành phố Hà Nội, L đã gặp và mua hồng phiến của một người đàn ông tên Tuấn (không rõ lai lịch địa chỉ) với giá 7.000.000 đồng. Sau đó, L đem số hồng phiến trên về nhà trọ tại tổ 19, phường Thịnh Đán để chia nhỏ hồng phiến đem đi bán. Khoảng 17 giờ ngày 16/6/2019, tại khu vực bến xe khách TN cũ thuộc tổ 17, phường Quang Trung, thành phố TN, L đã bán 10 viên hồng phiến cho một người phụ nữ tên Hoa với giá 700.000 đồng. Mua xong, Hoa hẹn L ngày hôm sau vẫn địa điểm và thời gian như trên L mang ma túy bán cho Hoa. Khoảng 15 giờ ngày 17/6/2019, khi L đang đến chỗ hẹn thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 426A/CT-VKSTPTN ngày 25/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Bùi Thị Thùy L về tội ”Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm i, khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng : Điểm i, khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 xử phạt: bị cáo Bùi Thị Thùy L Từ 09 đến 10 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: phạt tiền đối với bị cáo L từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định.

- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TN trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa hôm nay bị cáo L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ ngày 17/6/2019, tại khu vực tổ 17, phường Quang Trung, thành phố TN, Bùi Thị Thùy L đang có hành vi tàng trữ 10,831 gam Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời và sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Bùi Thị Thùy L đã phạm vào tội ”Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố các bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Điều 251 BLHS quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

………….

i, … Methamphetamine.....có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam”.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Bùi Thị Thùy L có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có mục đích thu lời bất chính vì vậy cần phải áp dụng khoản 5 Điều 251 BLHS phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án:

Tch thu tiêu huỷ: 03 bì niêm phong ký hiệu L1, L2, K ; 30 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng 2x2cm.

Tm giữ để đảm bảo công tác Thi hành án gồm:

-01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, vỡ hai đầu ở mặt sau, số Imei: 990002863877476.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, ốp lưng màu đen, số Imei: 352019076468697.

- Số tiền 1.900.000 đồng ( một triệu chín trăm nghìn đồng).

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng số 490 ngày 22/8/2019 và ủy nhiệm chi số 87 ngày 13/8/2019).

[7] Án phí; Quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Thị Thùy L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Bùi Thị Thùy L khai mua của một người đàn ông tên Tuấn, nhà ở Hà Nội vào ngày 15/6/2019, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. L đã nhiều lần bán ma túy cho những người không quen biết, trong đó có bán 10 viên hồng phiến cho đối tượng tên Hoa, sinh năm 1978, nhà ở khu vực Gang thép, thành phố TN vào ngày 16/6/2019 và ngày 17/6/2019, chưa kịp bán cho Hoa thì bị phát hiện bắt quả tang. Qúa trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của những người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Đim i , khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thị Thùy L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Thị Thùy L 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Pht tiền đối với bị cáo Bùi Thị Thùy L là: 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:

Tch thu tiêu huỷ: 03 bì niêm phong ký hiệu L1, L2, K; 30 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng 2x2cm.

Tm giữ để đảm bảo công tác Thi hành án gồm:

-01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, vỡ hai đầu ở mặt sau, số Imei: 990002863877476.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, ốp lưng màu đen, số Imei: 352019076468697.

- Số tiền 1.900.000 đồng ( một triệu chín trăm nghìn đồng).

(Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng số 490 ngày 22/8/2019 và ủy nhiệm chi số 87 ngày 13/8/2019).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Bùi Thị Thùy L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 433/2019/HSST ngày 23/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:433/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về