Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 29/07/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2021/TLST- HNGĐ ngày 27/4/2021 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST-DSngày 14/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đinh Thị T – sinh năm 1989;

Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T – sinh năm 1988;

Đều ĐKHKTT: xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Hiện nay anh T đang ở Đài Loan.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L.

Đều ĐKHKTT: xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

(Chị T, ông Đ, bà L xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn Chị Đinh Thị T trình bày: Chị và Anh Nguyễn Minh T kết hôn ngày 31/12/2014 tại UBND xã Y (nay là xã H), huyện T, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh T nhiều lần đánh đập, mắng chửi chị. Đầu năm 2018 anh T đi lao động tại nước ngoài đến nay chưa về. Do mâu thuẫn trước đây và khoảng cách về địa lý nên tình cảm vợ chồng không còn, quan điểm sống không phù hợp nên chị Thuý đề nghị giải quyết cho chị ly hôn Anh Nguyễn Minh T Về con chung: chị và anh T có một con chung là cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 09/9/2015, hiện nay cháu T đang sống cùng bà nội là ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L. Ly hôn chị đồng ý để Anh Nguyễn Minh T nuôi dưỡng cháu, chị không cấp dưỡng nuôi con chung. Trong thời gian anh T ở nước ngoài, chị T đồng ý để cháu tiếp tục ở với bà nội là ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L cho đến khi anh T về nước đón cháu.

Về tài sản chung, công nợ chung: đều không có nên chị không đề nghị Toà án giải quyết.

Do anh chị đã không liên lạc hai năm nay nên chị Thuý không biết địa chỉ của anh T tại Đài Loan nên không cung cấp được địa chỉ của anh T cho Toà án. Bố mẹ đẻ anh T là ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L hiện nay đang ở xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Chị đề nghị Toà án xác minh địa chỉ tại Đài Loan của anh T qua bố mẹ đẻ anh T. Hiện nay chị đi làm ăn xa nên đề nghị Toà án không tiến hành công khai chứng cứ, hoà giải và xin xét xử vắng mặt.

Tại đơn trình bày ý kiến của ông Nguyễn Minh Đ ngày 11/5/2021 và các bản tự khai ngày 12/5/2021 ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L đềutrình bày: ông bà là bố mẹ đẻ Anh Nguyễn Minh T – sinh năm 1988; địa chỉ: xã H, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Anh Nguyễn Minh T và Chị Đinh Thị T kết hôn năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc, anh T đi làm ăn ở Đài Loan đến nay chưa về nước. Anh T vẫn thường xuyên gọi điện hỏi thăm gia đình nhưng ông bà không biết địa chỉ của anh T ở Đài Loan nên không thể cung cấp cho Toà án. Nay chị Thuý có đơn đề nghị Toà án giải quyết ly hôn gia đình đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật. Về con chung, hai vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Minh T như chị T trình bày. Trong thời gian anh T ở nước ngoài, cháu T sẽ do ông Đạo và bà L chăm sóc cho đến khi anh T về nước đón cháu.Về tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp: Không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L đồng ý sẽ chăm sóc cháu T cho đến khi anh T về nước đón cháu. Quá trình giải quyết vụ án Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ có tống đạt thông báo thụ lý và các văn bản tố tụng khác gia đình đã nhận được và có thông báo đầy đủ cho anh T nhưng anh T có nói lại do điều kiện ở xa nên không về để làm việc được, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, việc thu thập chứng cứcủa Tòa án là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đại diện VKSND tỉnh Phú Thọ đề nghị Tòa án xử cho chị Đinh Thị T được ly hôn Anh Nguyễn Minh T. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 09/9/2015 cho cho Anh Nguyễn Minh T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Đinh Thị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu T cùng anh T từ 800.000đ/tháng đến 1.200.000đ/tháng cho đến khi cháu T thành niên và có khả năng lao động. Trong thời gian Anh Nguyễn Minh T ở nước ngoài, tạm giao cháu Nguyễn Minh T cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L nuôi dưỡng cho đến khi Anh Nguyễn Minh T về nước đón cháu T. Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Không có nên không đề nghị tòa án giải quyết. Về án phí: Chị Đinh Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Đinh Thị T nộp đơn xin ly hôn Anh Nguyễn Minh T tại Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ. Trong đơn ly hôn chị Thuý trình bày anh T hiện nay đang ở Đài Loan. Theo Công văn số 10833/QLXNC-P5 của Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ công an xác định Anh Nguyễn Minh T sinh ngày 07/6/1988 đã xuất cảnh ngày 01/3/2018 hiện nay chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Căn cứ khoản 3 Điều 35, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Quan hệ tranh chấp được xác định trong vụ án là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

[2] Về hôn nhân: Chị Đinh Thị T và Anh Nguyễn Minh T đăng ký kết hôn ngày 31/12/2014 tại UBND xã Y (nay là xã H), huyện T, tỉnh Phú Thọ nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ lời khai của chị T và bố mẹ đẻ anh T có căn cứ xác định cuộc sống anh T, chị T chung sống không hạnh phúc. Anh Nguyễn Minh T hiện nay đang ở nước ngoài, chị Thuý chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam anh T, không cung cấp được địa chỉ của anh T ở nước ngoài cho Tòa án. Ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L là bố mẹ đẻ anh Txác nhận anh T hiện nay đang ở Đài Loan, anh T vẫn liên lạc với gia đình nhưng không nói rõ địa chỉ cụ thể tại Đài Loan nên ông bà không cung cấp được địa chỉ của anh T tại Đài Loan cho Tòa án. Căn cứ công văn số 253/TANDTC – PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao đây thuộc trường hợp bị đơn cố tình dấu địa chỉ, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Anh T đang ở nước ngoài nên anh chị không có điều kiện gần gũi để giải quyết mâu thuẫn khắc phục tình trạng hôn nhân. Tình trạng hôn nhân trầm trọng kéo dài không có khả năng đoàn tụ nên HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: chị và anh T có một con chung là cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 09/9/2015 hiện nay cháu T đang ở cùng ông bà nội là ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L. Ly hôn chị T đồng ý để Anh Nguyễn Minh T nuôi dưỡng cháu, chị T không cấp dưỡng nuôi con chung. Hi đồng xét xử thấy trách nhiệm nuôi con là của chung hai vợ chồng do vậy cần buộc chị Đinh Thị T có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Nên cần buộc chị Đinh Thị T phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho Anh Nguyễn Minh T mỗi tháng 800.000đ cho đến khi cháu T thành niên và có khả năng lao động. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 8/2021. Phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng là phù hợp Trong thời gian anh T ở nước ngoài, chị T đồng ý để cháu T tiếp tục ở với ông bà nội là ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L cho đến khi anh T về nước đón cháu. Xét thấy Anh Nguyễn Minh T hiện đang ở nước ngoài nhưng chị T đồng ý để cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu T đồng thời cũng đồng ý để cháu tiếp tục ở với ông bà nội cho đến khi bố cháu về nước đón cháu. Ông Đạo và bà L cũng đồng ý sẽ nuôi dưỡng cháu T cho đến khi anh T về nước. Thực tế từ khi cháu Đạt còn nhỏ cháu cho đến nay cháu vẫn ở với ông bà nội là ông Đạo bà L, cháu vẫn phát triển bình thường nên HĐXX giao cháu cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, trong thời gian anh T ở nước ngoài, tạm giao cháu cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L nuôi dưỡng cho đến khi anh T về nước đón cháu là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Vê tài sản chung, công nợ: chị Thuý khai không có nên Tòa án không giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Đinh Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự; Điều 51; 56; 81; 82; 83; 107; 116;117 và Điều 123 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; Điều 37; khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH, quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho Chị Đinh Thị T ly hôn với Anh Nguyễn Minh T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 09/9/2015 cho cho Anh Nguyễn Minh T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Đinh Thị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu T cùng anh T 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng)/tháng cho đến khi cháu T thành niên và có khả năng lao động. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 8/2021. Phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng. Trong thời gian Anh Nguyễn Minh T ở nước ngoài, tạm giao cháu Nguyễn Minh T cho ông Nguyễn Minh Đ và bà Nguyễn Thị L nuôi dưỡng cho đến khi Anh Nguyễn Minh T về nước đón cháu T. Chị Đinh Thị T có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đinh Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ tiền án phí cấp dưỡng nuôi con. Xác nhận chị Hiền đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số: AA/2019/0004429 ngày 27/4/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7a,7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Đương sự ở trong nướccó vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. Đương sự ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 29/07/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về