Bản án 43/2021/DS-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 43/2021/DS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đăk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 03/2021/TLST-DS, ngày 04 tháng 01 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” và “Tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXST-DS ngày 10/5/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 43/2021/QĐST-DS ngày 31/5/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Kiên L (gọi tắt: Ngân hàng);

Địa chỉ: 40-42-44 Phạm Hồng T, phường Vĩnh Thanh V, TP. Rạch G, tỉnh Kiên Giang;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Tuấn A – Tổng giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Chí N – giám đốc Ngân hàng TMCP Kiên L – Chi nhánh Đắk Lắk.

Người được ủy quyền lại: Ông Lê Hoài S – Trưởng phòng khách hàng cá nhân kiêm khách hàng doanh nghiệp Ngân hàng TMCP Kiên L – Chi nhánh Đắk Lắk; địa chỉ: 146 Hoàng D, TP. Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Ông Điểu K và bà Thị T; Địa chỉ: Bon Bu B, xã Đắk N’D, huyện Đăk S, tỉnh Đăk Nông – Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/9/2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 09/8/2018 Ngân hàng đã giải ngân cho ông Điểu K và bà Thị T vay số tiền là 300.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 791/18/HĐTD/0700-4223 ngày 09/8/2018; Thời hạn vay 60 tháng; với lãi suất theo hợp đồng tín dụng là 11.61%/năm, số tiền gốc trả thành 05 kỳ, mỗi kỳ 12 tháng. Mục đích đầu tư chăm sóc cây cà phê, chăn nuôi bò và trồng mới hồ tiêu. Trong quá trình giải quyết vụ án Ông Điểu K và bà Thị T đã trả được một khoản tiền gốc là 27.000.000 đồng. Trước khi Ngân hàng khởi kiện ra Tòa án thì Ngân hàng cũng cho cán bộ xuống đốc thúc việc trả nhưng ông Điểu K và bà Thị T không chịu hợp tác, không trả cho Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét buộc ông Điểu K và bà Thị T phải trả cho Ngân hàng với số tiền gốc và lãi suất tạm tính đến ngày 16/4/2021 là 329.376.000 đồng. Trong đó tiền gốc là 273.000.000 đồng và lãi suất cho Ngân hàng.

Trong quá trình vay vốn của Ngân hàng thì ông Điểu K và bà Thị T đã thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 791/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 đối với quyền sử dụng đất số CN 375332, tờ bản đồ số 19, thửa đất số 98 với diện tích 413 m2, tọa lạc tại Bon Bu B, xã Đắk N’D, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông do UBND huyện Đăk Song cấp ngày 06/6/2018 và theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 791.01/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 đối với quyền sử dụng đất quyền sử dụng đất số BX 721118, tờ bản đồ số 7, thửa đất số 47 với diện tích 11331,3 m2,tọa lạc tại Bon Mê R, xã Đắk R’ T, huyện Tuy Đ, tỉnh Đắk Nông do UBND huyện Tuy Đ cấp ngày 04/5/2015. Nếu ông Điểu K và bà Thị T không trả hoặc trả không đủ thì Ngân hàng yêu cầu Chi cục thi hành án Dân sự huyện phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

* Bị đơn ông Điểu K và bà Thị T:

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập nhưng ông K, bà Thị T vắng mặt không có lý do. Tòa án đã thực hiện tống đạt các thủ tục tố tụng cho ông K, bà Thị T bằng hình thức niêm yết tại nơi ông K, bà Thị T cư trú, UBND xã Đắk N’ D và trụ sở Tòa án. Đồng thời, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án thì được thể hiện ông K, bà Thị T có về địa phương và ông Điểu K và bà Thị T đã đến Ngân hàng trả được một khoản tiền gốc và lãi cho Ngân hàng nhưng không về Tòa án làm việc. Vì vậy, Tòa án giải quyết vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc ông Điểu K và bà Thị T phải trả toàn bộ số tiền gốc và lãi cho Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng; tiền lãi suất và phạt vi phạm theo hai hợp đồng tín dụng nêu trên. Nếu ông Điểu K, bà Thị T không chịu trả, thì Ngân hàng yêu cầu xử lý các tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và sự tuân theo pháp luật tố tụng của nguyên đơn, bị đơn trong vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Đã thực hiện hoạt động tố tụng đầy đủ từ quá trình thụ lý, lập hồ sơ vụ án; Xác định đúng quan hệ tranh chấp giữa các bên; Tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ; Thẩm phán đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng thủ tục, trình tự xét xử. Hội đồng xét xử đúng thành phần, không có trường hợp nào phải thay đổi người tiến hành tố tụng, Hội đồng xét xử đã hỏi và thu thập chứng cứ đúng theo quy định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ các quy định, quyền và nghĩa vụ của mình. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Kiên L. Buộc ông Điểu K và bà Thị T có nghĩa vụ thanh toán số tiền 273.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi như đã thỏa thuận theo hợp đồng tín dụng cho đến khi trả xong nợ.

Trường hợp ông Điểu K và bà Thị T không trả nợ thì Ngân hàng TMCP Kiên L được quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Song xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 791/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 và theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 791.01/18/HĐTC-BĐS/0700- 4223 ngày 09/8/2018 để thu hồi nợ.

Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Buộc bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Điểu K và bà Thị T, có nơi cư trú: Bon Bu B, xã Đắk N’ D, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, tranh chấp giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp:

Ngân hàng TMCP Kiên L - chi nhánh Đắk Lắk đã cho ông Điểu K và bà Thị T vay số tiền là 300.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 791/18/HĐTD/0700-4223 ngày 09/8/2018. Đồng thời, ông Điểu K, bà Thị T thế chấp tài sản là các quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 791/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 và số 791.01/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018. Do đó, Tòa án xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” và “Tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản” theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.3].Về thời hiệu khởi kiện: Trong hợp đồng tín dụng số 791/18/HĐTD/0700- 4223 ngày 09/8/2018, các đương sự thỏa thuận thời hạn trả nợ gốc và lãi theo các chu kỳ cụ thể do người vay không thực hiện đúng theo các chu kỳ trả nợ này nên bên cho vay mới làm đơn khởi kiện yêu cầu bên vay trả toàn bộ số tiền đến hạn và chưa đến hạn được thể hiện trong hợp đồng tín dụng. Ngày 01/9/2020 Ngân hàng nộp đơn khởi kiện tại Tòa án, là còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật dân sự.

[1.4]. Về thủ tục tố tụng:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập nhưng ông Điểu K, bà Thị T vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án đã thực hiện tống đạt các thủ tục tố tụng cho ông Điểu K, bà Thị T bằng hình thức niêm yết tại nơi ông Điểu K, bà Thị T cư trú, UBND xã Đắk N’D và trụ sở Tòa án. Đồng thời, Tòa án đã cũng đã tiến hành xác minh trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án thì ông Điểu K và bà Thị T có về địa phương nhưng không đến Tòa án làm việc. Vì vậy, Tòa án xét xử vắng mặt ông Điểu K và bà Thị T là có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về số nợ và nghĩa vụ thanh toán:

Theo Hợp đồng tín dụng và các tài liệu liên quan đã thu thập được thể hiện:

Vào ngày 17 tháng 8 năm 2018 Ngân hàng TMCP Kiên L - chi nhánh Đắk Lắk cho ông Điểu K và bà Thị T vay tổng số tiền là 300.000.000 đồng, với mục đích: chăm sóc cà phê, chăn nuôi bò và trồng mới hồ tiêu; thời hạn vay 60 tháng, bên vay có trách nhiệm thanh toán số tiền và lãi cho Ngân hàng (trả 06 tháng trên lần; cụ thể số tiền gốc trả thành 05 chu kỳ). Lãi suất trong hạn tại thời điểm ký hợp đồng 11,61%/năm, lãi suất điều chỉnh sau 03 tháng, kể từ thời điểm thay đổi lãi suất đầu tiên do Ngân hàng TMCP Kiên L thông báo tại thời điểm điều chỉnh. Lãi suất quá hạn áp dụng đối với nợ gốc quá hạn là 150% lãi suất tín dụng trong hạn đang áp dụng tại thời điểm phát sinh nợ quá hạn. Xét Hợp đồng tín dụng trên có chữ ký của ông Điểu K và bà Thị T, việc ký kết là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên, nội dung, hình thức, mục đích của hợp đồng phù hợp với các quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Như vậy hợp đồng tín dụng nêu trên giữa Ngân hàng TMCP Kiên L – Chi nhánh Đắk Lắk với ông Điểu K và bà Thị T là hợp pháp.

Trong quá trình vay vốn của Ngân hàng, ngày 14/01/2021 (sau ngày Tòa án thụ lý vụ án) ông Điểu K, bà Thị T đến Ngân hàng trả 27.000.000 đồng nợ gốc. Như vậy, ông, bà biết Ngân hàng khởi kiện ông, bà ra Tòa án nhưng không thực hiện theo thỏa thuận trong quá trình trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng cũng như cố tình không đến Tòa án để làm việc. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông Điểu K, bà Thị T phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng toàn bộ số tiền gốc, tiền lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (24/06/2021), tổng số tiền 337.214.000 đồng, cụ thể như sau: Số tiền gốc là 273.000.000 đồng và lãi suất trong hạn, quá hạn là 64.214.000 đồng.

Ngoài ra, bị đơn phải tiếp tục chịu lãi theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 791/18/HĐTD/0700-4223 ngày 09/8/2018 kể từ ngày 25/6/2021 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ là phù hợp quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.

[2.2]. Về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất:

Ông Điểu K và bà Thị T đã thế chấp quyền sử dụng đất số theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 791/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 và số 791.01/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Kiên L – Chi nhánh Đắk Lắk với ông Điểu K và bà Thị T, công chứng ngày 13/8/2018 tại Văn phòng công chứng Đắk Song, tỉnh Đắk Nông và đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 13/8/2018 tại Văn phòng đăng ký đất đai Đăk Song đối với quyền sử dụng đất số CN 375332, tờ bản đồ số 19, thửa đất số 98 với diện tích 413 m2, tọa lạc tại Bon Bu B, xã Đắk N’D, huyện Đắk S, tỉnh Đắk Nông do UBND huyện Đăk Song cấp ngày 06/6/2018 và quyền sử dụng đất số BX 721118, tờ bản đồ số 7, thửa đất số 47 với diện tích 11331,3 m2 tọa lạc tại Bon Mê R, xã Đắk R’ T, huyện Tuy Đ, tỉnh Đắk Nông do UBND huyện Tuy Đức cấp ngày 04/5/2015.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại cơ quan có thẩm quyền xác định được các tài sản thế chấp thuộc quyền sử dụng của ông Điểu K, bà Thị T, đúng với hiện trạng theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên và không có sự biến động. Do đó, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã được ký kết giữa các đương sự là hợp pháp theo các điều 213, 298, 299, 317, 318, 320 của Bộ luật dân sự và điểm a khoản 3 Điều 167; khoản 1 Điều 168 Luật đất đai. Vì vậy, trong trường hợp ông Điểu K và bà Thị T không trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Song xử lý các tài sản trên để thu hồi nợ.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về chi phí tố tụng:

- Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ liên quan các thửa đất đã thế chấp với chi phí là 3.000.000 đồng. Bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên phải chịu khoản chi phí này. Do ngân hàng đã tạm ứng cho Tòa án, nên buộc ông Điểu K, bà Thị T phải hoàn trả số tiền này cho Ngân hàng.

[4]. Về án phí: Buộc ông Điểu K và bà Thị T phải nộp toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 16.860.700 đồng.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 147; điều 157; điều 180; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 3 Điều 167; khoản 1 Điều 168 Luật đất đai; Căn cứ Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng;

Căn cứ các Điều 213, 298, 299, 317, 318, 320, 463, 466 của Bộ luật dân sự và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Kiên L.

Buộc ông Điểu K và bà Thị T phải liên đới thanh toán cho Ngân hàng TMCP Kiên L tính đến ngày xét xử sơ thẩm (24/6/2021) số tiền là 337.214.000 đồng (ba trăm ba mươi bảy nghìn hai trăm mười bốn đồng), trong đó nợ gốc là 273.000.000 đồng (hai trăm bảy mươi ba triệu đồng) và lãi suất trong hạn, quá hạn là 64.214.000 đồng (sáu mươi tư triệu hai trăm mười bốn nghìn đồng).

Ông Điểu K và bà Thị T tiếp tục phải trả tiền lãi phát sinh từ ngày 25/6/2021 theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 791/18/HĐTD/0700-4223 ngày 09/8/2018 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

Trường hợp ông Điểu K và bà Thị T không trả nợ thì Ngân hàng TMCP Kiên L được quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Song xử lý tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 791/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 và số 791.01/18/HĐTC-BĐS/0700-4223 ngày 09/8/2018 để thu hồi nợ.

Trường hợp tiền thu được từ tài sản đảm bảo không đủ để thanh toán khoản nợ thì ông Điểu K và bà Thị T phải tiếp tục trả số nợ còn lại cho đến khi thanh toán hết nợ cho Ngân hàng TMCP Kiên L.

* Về chi phí tố tụng:

Ông Điểu K và bà Thị T phải hoàn trả số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) cho Ngân hàng TMCP Kiên L.

* Về án phí:

Buộc ông Điểu K và bà Thị T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 16.860.700 đồng (mười sáu triệu tám trăm sáu mươi nghìn bảy trăm đồng).

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Kiên L số tiền 8.463.000 đồng (Tám triệu bốn trăm sáu mươi ba nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005083 ngày 21/12/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Song, tỉnh Đăk Nông.

* Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án tống đạt hợp lệ.

“ Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/DS-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản

Số hiệu:43/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về