Bản án 07/2019/DS-ST ngày 14/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 07/2019/DS-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 12/2019/TLST-DS ngày 19 tháng 02 năm 2019 về việc: "Tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 9a/2019/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2019/QĐST-DS ngày 16 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần K; địa chỉ: Số 12, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Phạm Phong H1; Chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch T-Ngân hàng Thương mại Cổ phần K-Chi nhánh Hải Phòng (Là người đại diện theo ủy quyền theo Văn bản ủy quyền số 1350/UQ- NHKL ngày 22 tháng 8 năm 2018); có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H; đều có nơi ĐKHKTT: Thôn Q, xã N, huyện A, thành phố Hải Phòng; đều có nơi cư trú: Thôn H2, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; đều vắng mặt.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần K (gọi tắt là Ngân hàng) do bà Phạm Phong H1 là người đại diện theo uỷ quyền trình bày:

Ngân hàng và Ông Nguyễn Quốc C, bà Nguyễn Thị Thu H ký Hợp đồng tín dụng số 061/17/HĐTD/1403-5532 ngày 24 tháng 01 năm 2017 (gọi tắt là Hợp đồng tín dụng). Theo nội dung Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng cho ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H vay số tiền 140.000.000 đồng với mục đích sửa chữa nhà của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H; Thời hạn vay 120 tháng, lãi suất trong hạn 13,86%/năm; Lãi suất cho vay được điều chỉnh 03 tháng/lần, được tính bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng nhận lãi cuối kỳ của Ngân hàng tại thời điểm thay đổi lãi suất cộng biên độ 4,23%/năm; Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay ngay trước thời điểm chuyển nợ quá hạn; phạt chậm trả lãi 0,05%/01 ngày; Hình thức thanh toán: Mỗi tháng trả gốc, lãi một lần vào ngày 24 hàng tháng.

Khoản tiền vay được ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H bảo đảm bằng việc thế chấp quyền sử dụng diện tích đất 86,4 m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 856A, tờ bản đồ số 08, xã Đ; địa chỉ thửa đất: Thôn H2, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 837290, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00051 do UBND huyện An Dương cấp ngày 12 tháng 8 năm 2014 đứng tên chủ sử dụng đất ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H. Việc thế chấp đã được lập Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 061/17/HĐTC-BĐS/1403-5532 ngày 24 tháng 01 năm 2017 (gọi tắt là Hợp đồng thế chấp tài sản). Các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng thế chấp tài sản là Ngân hàng TMCP K-Chi nhánh H3-Phòng Giao dịch T, ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H, hợp đồng đã được công chứng, chứng thực tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị K1, thành phố Hải Phòng và được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Giá trị tài sản thế chấp theo thỏa thuận tại Hợp đồng thế chấp tài sản là 206.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã giải ngân cho ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H vay số tiền 140.000.000 đồng. Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã nhận đủ số tiền vay theo Giấy đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 061/KUNN.CN ngày 24 tháng 01 năm 2017 (gọi tắt là Khế ước nhận nợ) nhưng đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H mới chỉ trả được cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 9.360.000 đồng, lãi trong hạn 13.090.709 đồng, lãi quá hạn 687.383 đồng và phạt chậm trả lãi 2.361.908 đồng, tổng cộng số tiền ông C, bà H đã trả cho Ngân hàng là: 25.500.000 đồng.

Tính đến hết ngày 14 tháng 10 năm 2019, ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H còn nợ Ngân hàng các khoản sau:

- Nợ gốc: 130.640.000 đồn

 - Lãi trong hạn: 38.720.813 đồng

- Lãi quá hạn: 2.009.727 đồng

- Phạt chậm trả lãi: 7.025.677 đồng

Tổng cộng: 178.421.217 đồng Nay Ngân hàng đề nghị Toà án buộc ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền tính đến hết ngày 14 tháng 10 năm 2019 là 178.421.217 đồng, (trong đó: Nợ gốc là 130.640.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 38.720.813 đồng, nợ lãi quá hạn là 2.009.727 đồng, phạt chậm trả lãi là 7.025.677 đồng) và số tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ tính từ ngày 15 tháng 10 năm 2019 cho đến khi ông C và bà H thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

Trường hợp ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích đất 86,4 m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 856A, tờ bản đồ số 08, xã Đ; địa chỉ thửa đất: Thôn H2, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 837290, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00051 do UBND huyện A cấp ngày 12 tháng 8 năm 2014 đứng tên chủ sử dụng đất ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H. Số tiền phát mại tài sản bảo đảm thu được sau khi trả nợ cho Ngân hàng nếu còn thừa sẽ trả lại cho bên thế chấp ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H, nếu thiếu ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.

Đối với bị đơn là ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông C, bà H để ông C, bà H đến Tòa án nhân dân huyện An Dương giải quyết việc Ngân hàng khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản nhưng ông C, bà H đều vắng mặt không có lý do và không có quan điểm.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã không đến Tòa án để ghi bản tự khai và tham gia phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo thông báo của Tòa án, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do đã vi phạm các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, những vi phạm này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

- Về nội dung: Căn cứ vào khoản 3, Điều 26; Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các điều 317, 318, 319, 320, khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào điểm g, khoản 1, Điều 179 Luật Đất đai năm 2013;

- Căn cứ vào khoản 14, Điều 4; các điều 90, 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng;

 - Căn cứ vào Điều 3 Nghị định số 83/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm;

Căn cứ Điều 6; khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H. Buộc ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền tính đến hết ngày 14 tháng 10 năm 2019 là 178.421.217 đồng, (trong đó: Nợ gốc là 130.640.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 38.720.813 đồng, nợ lãi quá hạn là 2.009.727 đồng, phạt chậm trả lãi là 7.025.677 đồng) và số tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng và Khế ước nhận nợ tính từ ngày 15 tháng 10 năm 2019 cho đến khi ông C và bà H thanh toán xong toàn bộ khoản nợ).

Trường hợp ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản thế chấp là quyền sử dụng diện tích đất 86,4 m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 856A, tờ bản đồ số 08, xã Đ; địa chỉ thửa đất: Thôn H2, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 837290, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00051 do UBND huyện An Dương cấp ngày 12 tháng 8 năm 2014 đứng tên chủ sử dụng đất ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H. Số tiền phát mại tài sản bảo đảm thu được sau khi trả nợ cho Ngân hàng nếu còn thừa sẽ trả lại cho bên thế chấp ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H, nếu thiếu ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.

Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Trả lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 - Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là: “Tranh chấp kiện đòi tiền cho vay tại phiên tòa Tòa án xác định lại quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản” theo quy định tại khoản 3, Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H hiện đang cư trú tại thôn H2, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông C, bà H.

- Về nội dung:

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và ông Nguyễn Quốc C, bà Nguyễn Thị Thu H đã được hai bên thống nhất thoả thuận, ký kết bởi những người có đủ thẩm quyền, hình thức, nội dung hợp đồng không vi phạm các điều cấm, không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Do vậy, Hợp đồng tín dụng là hợp pháp, là căn cứ pháp lý để các bên thực hiện. Quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng, Ngân hàng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình là giải ngân cho ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H vay số tiền 140.000.000 đồng theo Khế ước nhận nợ. Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã nhận đủ số tiền vay nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. Do ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án theo điểm h, khoản 1, Điều 11 của Hợp đồng tín dụng là có căn cứ.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn đối với khoản nợ gốc: Căn cứ lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, căn cứ các chứng cứ do Tòa án thu thập đã xác định số tiền nợ gốc Ngân hàng đã giải ngân cho ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H là 140.000.000 đồng. Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc 9.360.000 đồng. Như vậy, số tiền nợ gốc ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H còn phải thanh toán cho Ngân hàng là 130.640.000 đồng và lãi phát sinh. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng về việc đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải trả khoản tiền nợ gốc 130.640.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[5] Đối với khoản tiền lãi: Tại nội dung của Hợp đồng tín dụng thì ngày 24 hàng tháng ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải trả số tiền lãi, lãi suất trong hạn là 13,86%/năm; Lãi suất cho vay được điều chỉnh 03 tháng/lần, được tính bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng nhận lãi cuối kỳ của Ngân hàng tại thời điểm thay đổi lãi suất cộng biên độ 4,23%/năm; Lãi suất cho vay quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay ngay trước thời điểm chuyển nợ quá hạn; phạt chậm trả lãi là 0,05%/ngày; Hình thức thanh toán: trả gốc lãi hàng tháng. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã vi phạm thời hạn trả nợ nên đã phát sinh lãi trong hạn và lãi quá hạn, phạt chậm trả lãi nên yêu cầu của Ngân hàng về việc yêu cầu ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải trả lãi trong hạn, lãi quá hạn, phạt chậm trả lãi là có căn cứ.

[6] Tính đến hết ngày 14 tháng 10 năm 2019, ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H còn nợ Ngân hàng số tiền lãi, tiền phạt là 47.781.217 đồng. Nên buộc ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải trả cho Ngân hàng số tiền 178.421.217 đồng, {trong đó: Nợ gốc là 130.640.000 đồng, nợ lãi là 47.781.217 đồng (gồm: Lãi trong hạn là 38.720.813 đồng, lãi quá hạn là 2.009.727 đồng, phạt chậm trả lãi là 7.025.677 đồng)}.

[7] Kể từ ngày 15 tháng 10 năm 2019, ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

[8] Về yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm: Căn cứ bản tự khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, căn cứ các chứng cứ do Tòa án thu thập đã xác định: Để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H vay vốn của Ngân hàng, ông C và bà H đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản đối với Ngân hàng. Theo nội dung Hợp đồng thế chấp tài sản, ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã thế chấp tài sản là Quyền sử dụng diện tích đất 86,4m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 856A, tờ bản đồ số 08, xã Đ; địa chỉ thửa đất: Thôn H2, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 837290, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00051 do UBND huyện An Dương cấp ngày 12 tháng 8 năm 2014 đứng tên chủ sử dụng đất ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H. Xét thấy, Hợp đồng thế chấp tài sản được thoả thuận, ký kết bởi những người có đủ năng lực, thẩm quyền, được chứng nhận bởi cơ quan công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Do vậy, Hợp đồng thế chấp tài sản là hợp pháp, là căn cứ pháp lý phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

[9] Theo khoản 1, Điều 10 của Hợp đồng thế chấp tài sản quy định: "…Bên A được quyền xử lý tài sản thế chấp (TSTC) để thu hồi một phần hoặc toàn bộ các khoản phải trả (CKPT), kể cả CKPT chưa đến hạn, nếu xảy ra một hoặc các trường hợp sau đây:

a) Khi bên B không trả đầy đủ, đúng hạn bất kỳ CKPT đến hạn theo quy định". Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng tín dụng đã ký với Ngân hàng. Do vậy, yêu cầu về việc được quyền đề nghị Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản thế chấp thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H nêu trên của Ngân hàng đưa ra là có căn cứ.

[10] Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án ngày 05 tháng 7 năm 2019 cho thấy: Các tài sản là nhà ở, công trình vật kiến trúc trên diện tích 86,4 m2 đất ở tại thửa đất số 856A, tờ bản đồ số 08, xã Đ; địa chỉ thửa đất: Thôn H2, xã Đ, huyện A, Hải Phòng thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 837290, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00051 do UBND huyện A cấp ngày 12 tháng 8 năm 2014 đứng tên chủ sử dụng đất ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H, hiện tại ông C, bà H đang quản lý sử dụng.

[11] Số tiền phát mại các tài sản bảo đảm thu được sau khi trả nợ cho Ngân hàng nếu còn thừa sẽ trả lại cho bên thế chấp ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H nếu thiếu ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.

[12] Về án phí: Ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của Ngân hàng được Toà án chấp nhận. Trả lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

[13] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3, Điều 26; Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các điều 317, 318, 319, 320, khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào điểm g, khoản 1, Điều 179 Luật Đất đai năm 2013;

- Căn cứ vào khoản 14, Điều 4; các điều 90, 91, 95, 98 Luật các tổ chức tín dụng;

 - Căn cứ vào Điều 3 Nghị định số 83/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm;

-Căn cứ vào Điều 6; khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần K đối với ông Nguyễn Quốc C, bà Nguyễn Thị Thu H.

Buộc ông Nguyễn Quốc C, bà Nguyễn Thị Thu H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần K số tiền tính đến hết ngày 14 tháng 10 năm 2019 là 178.421.217 (Một trăm bảy mươi tám triệu bốn trăm hai mươi mốt nghìn hai trăm mười bảy) đồng, (trong đó: Nợ gốc là 130.640.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 38.720.813 đồng, nợ lãi quá hạn là 2.009.727 đồng, phạt chậm trả lãi là 7.025.677 đồng).

Kể từ ngày 15 tháng 10 năm 2019 hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thoả thuận trong hợp đồng tín dụng số 061/17/HĐTD/1403-5532 ngày 24 tháng 01 năm 2017 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

Trường hợp ông Nguyễn Quốc C, bà Nguyễn Thị Thu H không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng Thương mại Cổ phần K thì Ngân hàng có quyền đề nghị Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông Nguyễn Quốc C, bà Nguyễn Thị Thu H đối với Ngân hàng Thương mại Cổ phần K, gồm:

Quyền sử dụng diện tích đất 86,4 m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 856A, tờ bản đồ số 08, xã Đ; địa chỉ thửa đất: Thôn H2, xã Đ, huyện A, Hải Phòng thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 837290, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00051 do UBND huyện An Dương cấp ngày 12 tháng 8 năm 2014 đứng tên chủ sử dụng đất ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H.

Số tiền phát mại tài sản bảo đảm thu được sau khi trả nợ cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần K nếu còn thừa sẽ trả lại cho bên thế chấp ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H, nếu thiếu ông Nguyễn Quốc C và bà Nguyễn Thị Thu H phải tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.

2. Về án phí và yêu cầu thi hành án Ông Nguyễn Quốc C, bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu 8.921.061 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần K 3.913.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 4084 ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

542
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/DS-ST ngày 14/10/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản

Số hiệu:07/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về