Bản án 43/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2020/HSST ngày 07 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐXXST-HS ngày 03/3/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H , sinh ngày 01/01/1997 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ng và bà Kim Thị H; chồng: Chưa có; con: 01 con sinh năm 2019; khi phạm tội bị cáo đang có thai; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 05/02/2020 đến nay (có mặt).

Bị hại: Anh Phạm Nguyên T , sinh năm 1992; nơi ở: Thôn Đ, xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối 27/7/2019, anh Phạm Nguyên T đi uống cà phê tại một quán cà phê trên địa bàn huyện Yên Lạc (không nhớ tên, địa chỉ cụ thể của quán) bị rơi mất chiếc ví giả da màu đen. Theo lời khai anh T , bên trong ví có các giấy tờ và tài sản gồm: 01 chứng minh nhân dân, 01 thẻ ATM ngân hàng Viettinbank, 01 bằng lái xe máy, 01 bằng lái xe ô tô đều mang tên Phạm Nguyên T và số tiền 5.300.000 đồng. Khoảng 06 giờ ngày 28/7/2019, Nguyễn Thị H , đang ở tại phòng trọ của bạn ở ngõ 9, đường Lam Sơn, phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên thì nhận được điện thoại và tin nhắn từ số thuê bao 0345611669, theo H khai nhận, đây là số điện thoại của người bạn quen biết ngoài xã hội tên Đ, sinh năm 1988, nhà ở khu vực bến xe khách huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ cụ thể). Qua điện thoại, Đ nói với H Đ nhặt được 1 chiếc ví bên trong có giấy tờ đều mang tên Phạm Nguyên T và bảo H gọi điện thoại vào số máy của anh T yêu cầu chuộc lại giấy tờ. Sau đó, Đ nhắn tin cho H số điện thoại của anh T 0373133900. H đồng ý. Khoảng 12 giờ cùng ngày, H gọi điện thoại vào số máy 0373133900 hỏi có phải anh T bị mất ví bên trong có giấy tờ không, anh T xác nhận là đúng. H nhận mình là người nhặt được ví của anh T và yêu cầu anh T muốn chuộc lại phải đưa cho H 4.000.000 đồng. Sau nhiều lần nhắn tin qua lại anh T nói chỉ có 1.000.000,đ, H nhắn tin, yêu cầu anh T đưa số tiền 1.500.000,đ và đe dọa nếu không đem tiền đến chuộc H sẽ hủy bỏ giấy tờ của anh T . Do lo sợ bị hủy bỏ giấy tờ nên anh T đồng ý gặp H để chuộc lại giấy tờ nhưng nói với H hiện tại chỉ có 1.200.000 đồng. H đồng ý cho anh T chuộc lại giấy tờ với số tiền 1.200.000,đ và hẹn 19 giờ 00 cùng ngày, anh T ra Bưu điện tỉnh Vĩnh Phúc để nhận tiền và giao giấy tờ. Sau đó H liên hệ với Đ lấy ví và giấy tờ trả cho anh T . Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, H bắt xe taxi (không nhớ tên hãng, biển kiểm soát) đi đến cổng trường Kim Ngọc gặp Đ. Đến nơi, H xuống xe gặp Đ đang đứng một mình, Đ đưa cho H 1 chiếc ví giả da và dặn H khi nào Tiến đưa tiền thì mới được đưa ví, rồi gọi một xe taxi khác qua số điện thoại tổng đài. Một lúc sau, xe ô tô taxi do anh Tô Mạnh Hải, sinh năm 1981, hộ khẩu thường trú tại khu 8, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc đến. H và Đ lên xe taxi yêu cầu anh Hải đưa đến Bưu điện tỉnh Vĩnh Phúc. Trên xe taxi, Đ gọi điện thoại cho ai đó rồi có một người đàn ông đi xe máy (không biết tên, tuổi, địa chỉ, không rõ nhãn hiệu, biển kiểm soát của xe) đi đến, Đ bảo H xuống taxi lên xe máy bạn Đ chở đi nên H xuống xe taxi ngồi lên xe máy do người thanh niên điều khiển đi đến khu vực bưu điện tỉnh, Đ đi taxi theo sau. Khi đến điểm hẹn, H xuống xe đứng đợi và gọi điện thoại nhưng anh T vẫn chưa đi đến nơi nên người thanh niên đi xe máy bỏ về trước. H quay lại ngồi vào xe taxi của anh Hải đợi anh T còn Đ xuống xe đi đâu không rõ. Một lúc sau, H tiếp tục gọi điện thoại cho anh T thì thấy có 1 người đàn ông đứng ở cửa bưu điện đưa điện thoại lên nghe máy. Lúc này, anh T đã đi đến điểm hẹn, đang một mình đứng đợi H ở trước cửa bưu điện. H bảo anh Hải đi đến chỗ người thanh niên. H vẫn ngồi trong xe ô tô, hạ cửa kính sau xuống hỏi “Anh có phải anh T không”, anh T bảo “Ừ”, H yêu cầu anh T đưa tiền H sẽ đưa giấy tờ cho. Anh T đưa qua cửa kính cho H 1.200.000 đồng. H cầm tiền trên tay và đưa qua cửa kính cho anh T 01 chiếc ví da bên trong có giấy tờ tùy thân. Anh T vừa cầm ví thì bị cơ quan công an bắt quả tang, lập biên bản, thu giữ các vật chứng gồm: Số tiền 1.200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos, màu trắng của H ; 01 ví màu đen bên trong có 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 giấy phép lái xe hạng C, 01 chứng minh nhân dân, 1 thẻ ATM Viettinbank đều mang tên Phạm Nguyên T .

Tại Kết luận giám định số 2468 ngày 23/11/2019, kết luận: Trích xuất được các dữ liệu trong mẫu vật gửi giám định, qua phân tích dữ liệu trong các ngày 27/7/2019 và 28/7/2019 thu được 53 cuộc gọi đến, 103 cuộc gọi đi …, 146 tin nhắn đến, 118 tin nhắn đi. Kèm theo kết luận giám định có 01 bản in dữ liệu tin nhắn và 01 bản in dữ liệu cuộc gọi có chữ ký của giám định viên. Tại bản in dữ liệu cuộc gọi ngày 28/7/2019 có nhiều cuộc gọi đi và đến vào các thời điểm khác nhau với số thuê bao 345611669 và 373133900. Tại bản in dữ liệu tin nhắn ngày 28/7/2019 có các tin nhắn đi và đến với các số thuê bao 345611669 và 373133900, phù hợp với nội dung vụ án nêu trên.

Cáo trạng số 31/CT-VKSTP.VY ngày 05/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị H khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Bị hại anh Phạm Nguyên T vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung trên (từ bút lục 56 đến bút lục 63).

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Xác nhận Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại cho anh Phạm Nguyên T số tiền 1.200.000,đ; 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 giấy phép lái xe hạng A1, 01 giấy phép lái xe hạng C, 01 chứng minh nhân dân, 1 thẻ ATM Viettinbank đều mang tên Phạm Nguyên T là hợp pháp. Tịch thu bán phát mại sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung GT-I8552, thu giữ của H là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Thị H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết giám định điện thoại cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 28/7/2019, Nguyễn Thị H được một người bạn ngoài xã hội tên là Đ nói nhặt được 01 cái ví và đưa cho H bên trong ví có các giấy tờ tùy thân mang tên Phạm Nguyên T . Đ nhắn cho H số điện thoại của anh T và bảo H gọi để anh T chuộc ví cùng giấy tờ. H đã gọi điện yêu cầu anh T đưa cho H số tiền 1.200.000,đ để chuộc lại ví và giấy tờ, nếu anh T không đưa tiền H sẽ hủy bỏ toàn bộ giấy tờ. Do lo sợ bị H hủy toàn bộ giấy tờ, nên khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, tại khu vực cổng Bưu điện tỉnh Vĩnh Phúc thuộc phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, khi H vừa nhận được số tiền anh T đưa 1.200.000,đ, và anh T vừa nhận lại 01 ví bên trong ví có các giấy tờ tùy thân thì bị bắt quả tang thu giữ vật chứng gồm: Số tiền 1.200.000,đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Duos màu trắng của H ; 01 ví màu đen bên trong có 01 giấy phép lái xe hạng A1, 1 giấy phép lái xe hạng C, 1 chứng minh nhân dân, 1 thẻ ATM Viettinbank đều mang tên Phạm Nguyên T .

Hành vi đe dọa hủy giấy tờ, uy hiếm tinh thần anh T để chiếm đoạt số tiền 1.200.000,đ nêu trên của Nguyễn Thị H đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Hành vi cưỡng đoạt tài sản nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 05 năm tù, thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Chỉ vì muốn kiếm tiền nhanh chóng bị cáo đã dùng lời nói đe dọa, uy hiếm tinh thần người khác để chiếm đoạt số tiền 1.200.000,đ. Sau khi kết thúc điều tra bị cáo bỏ trốn khỏi nơi cư trú, Cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã và bắt được bị cáo, thể hiện bị cáo không chấp hành pháp luật, gây khó khăn cho cơ quan pháp luật, nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian để cải tạo bị cáo trờ thành người có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” “Bị cáo phạm tội khi đang có thai” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s, n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập gì, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với các bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án:

Đối với người tên Đ, sinh năm 1988, H khai nhà Đ ở khu vực bến xe huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ nhưng không rõ địa chỉ cụ thể và người đàn ông chở H bằng xe máy đến cổng bưu điện tỉnh nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ và thông tin gì khác, Cơ quan điều tra chưa xác định được những người này. Nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đối với anh Tô Mạnh H là người lái xe taxi chở H đến cổng Bưu điện tỉnh Vĩnh Phúc để gặp và cưỡng đoạt tài sản của anh T , quá trình điều tra xác định anh Hải thực hiện công việc theo điều động của tổng đài, không biết và không liên quan đến sự việc phạm tội của H , nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Về số tiền 5.300.000 đồng anh T khai để trong ví cùng các giấy tờ, quá trình điều tra, H chỉ thừa nhận bên trong có các giấy tờ tùy thân, không có tiền, ngoài lời khai của anh T không có chứng cứ nào khác, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

Ngày 05/12/2019, Cơ quan điều tra đã trả lại anh T 1.200.000,đ, 01 ví giả da màu đen, 01 giấy phép lái xe hạng A1, 1 giấy phép lái xe hạng C, 1 chứng minh nhân dân, 1 thẻ ATM Viettinbank, sau khi nhận lại tài sản anh T không yêu cầu về bồi thường dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung GT-I8552 thu giữ của H dùng làm phương tiện phạm tội, nên tịch thu bán sung quỹ Nhà nước.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 170; điểm s, n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo (ngày 05/02/2020).

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, bán, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung GT-I8552 của H dùng làm phương tiện phạm tội (đặc điểm tang vật như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/02/2020)

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về