Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 43/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Hôm nay ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 24/2019/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2019 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2020 và QĐ hoãn phiên tòa số 48/2020/QĐST - HNGĐ ngày 25/6/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Tống Văn T - SN 1985.

ĐKHKTT: Đường N, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Địa chỉ hiện nay: Thôn P, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy L (tên thường gọi: Linh) - SN 1985.

ĐKHKTT: Đường N, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:

Ông Nguyễn Xuân D và bà Trịnh Thị T - Luật sư Văn phòng luật sư L - Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa hôm nay có mặt anh T; ông Nguyễn Xuân D và bà Trịnh Thị T là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh T, vắng mặt chị L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và được bổ sung bằng lời khai cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ, nguyên đơn anh Tống Văn T trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Thùy L xây dựng gia đình với nhau năm 2016, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được 02 năm, thì đến tháng 06/2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường cải vả và xúc phạm nhau. mâu thuẩn cũng được hai bên gia đình động viên khuyên giải nhưng không có kết quả, nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh đề nghị tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị Thùy L.

- VÒ con chung: Anh T và chị L thống nhất vợ chồng có 01 con chung là cháu Tống Gia B sinh ngày 10/5/2017. Ly hôn anh T đồng ý giao cháu Gia B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 07/2020 cho đến khi cháu B thành niên.

- Về tài sản, công nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy L trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập hợp lệ và thông báo các phiên họp kiểm tra, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải để chị L đến Tòa án để trình bày quan điểm của mình đối với đơn khởi kiện của anh T, nhưng chị L đều vắng mặt không đến Tòa án để trình bày và không khai báo, gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án, do vậy Tòa án đã thu thập tài liệu và thực hiện đầy đủ các bước trình tự tố tụng đối với bị đơn cố tình không khai báo.

* Tại phiên tòa hôm nay: Anh T vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn chị L và anh đồng ý giao cháu B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 07/2020 cho đến khi cháu thành niên.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát thành phố T phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Toà án và đương sự đã tuân thủ đúng theo qui định của Bộ Luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết cũng như xét xử vụ án. Về đường lối: Đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của anh T về việc xin ly hôn chị L, chấp nhận đề nghị của anh T giao cháu B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng và anh T tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ. Về tài sản và công nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày quan điểm bảo vệ: Căn cứ các quy định vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và công bố các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Tống Văn T có đơn khởi kiện ly hôn với bị đơn là chị Nguyễn Thị Thùy L. Do đó đây là vụ án ly hôn nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của BLTTDS thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hóa thụ lý theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thị Thùy L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Anh Tống Văn T và chị Nguyễn Thị Thùy L kết hôn với nhau năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Lam Sơn, thành phố T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hòa thuận hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do quan điểm cách sống của hai người không hợp, không quan tâm và có trách nhiệm đến nhau nên vợ chồng cắt đứt quan hệ tình cảm và ly thân từ năm 2019 đến nay.

Sau khi thụ lý vụ án, chị L từ chối nhận thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày bản tự khai và thông báo các phiên họp kiểm tra, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án, nhưng các lần đều không có mặt tại Tòa theo như thời gian thông báo trong giấy, nhưng chị L vẫn cố tình không khai báo, vì vậy Tòa án phải lập các biên bản để có cơ sở giải quyết theo quy định của pháp luật, điều này chứng tỏ chị L không có thiện chí đoàn tụ.

Qua xác minh tại địa phương cho thấy vợ chồng có mâu thuẩn, còn nguyên nhân cụ thể như thế nào chính quyền địa phương không nắm được và thực tế theo anh T trình bày vợ chồng đã ly thân từ năm 2019 đến nay, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, có kéo dài cũng không đem lại hạnh phúc, nghĩ nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật HNGĐ xử cho anh Tống Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị Thùy L.

[3] Về con cái: Trong quá trình Tòa án giải quyết chị L cố tình không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm của mình về việc nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con, căn cứ vào lời khai anh T và chứng cứ do anh xuất trình, anh chị có 01 con chung cháu B sinh ngày 10/5/2017.

Xét việc giao con cho ai nuôi là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu và hiện tại cháu còn nhỏ và cũng đang ở với mẹ, nên anh T đồng ý giao cháu B cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi cháu thành niên, việc giao con và tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con của anh T là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật, cần được chấp nhận.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của anh T.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 6; điểm a khoản 5; khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đ án phí DSST về nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào Điều 6; điểm a khoản 5; khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về hôn nhân: Xử cho anh Tống Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị Thùy L (tên thường gọi: L1).

- Về con chung: Công nhận cháu B sinh ngày 10/5/2017 là con chung của anh Tống Văn T và chị Nguyễn Thị Thùy L.

Giao cháu B cho chị Nguyễn Thị Thùy L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 7/2020 cho đến khi cháu B thành niên.

Anh T được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về tài sản, công nợ chung: Chấp nhận yêu cầu của anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh T nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số AA/2018/0000584 ngày 05/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá (anh T đã nộp đủ án phí DSST) và phải chịu 300.000đ án phí DSST về nghĩa vụ cấp dưỡng định kỳ.

Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:43/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về