Bản án 43/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 43/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2019/TLST- HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Trọng T, sinh ngày 04 tháng 5 năm 2001 tại Tp. Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: đường S, phường Q, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; trước khi bị bắt: Bị cáo không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn) 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Kim L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: tốt; bị bắt, tạm giam ngày 03/12/2018 (Có mặt)

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

Ông Trần Thanh H, sinh năm 1957 (Vắng mặt) và bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1957 (Có mặt) - là cha mẹ của bị cáo.

Cùng cư trú: đường S, phường Q, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Huỳnh Khắc T, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm T thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)

- Người bị hại: Bà Lý Thị Thu T, sinh năm 1990; trú tại: đường L, phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Thái Đình Anh V, sinh năm 2000; trú tại: đường số 1, khu phố 5, phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 19/7/2018, bị cáo đến chơi game tại Cửa hàng dịch vụ Internet K do bà Lý Thị Thu T làm chủ, địa chỉ Ấp 3, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc tạm dừng ra ngoài hút thuốc lá, bị cáo phát hiện chiếc xe mô tô hiệu Vaspa LX125, biển số 59Y1-468.83 của bà T đang đậu, chìa khóa cắm vào ổ khóa yên xe nhưng không có người trông giữ nên nảy sinh ý định chiếm đoạt xe đem bán lấy tiều tiêu xài. Bị cáo đến gần chiếc xe, rút chìa khóa xe bỏ vào túi quần phía trước bên phải rồi trở vào tiếp tục chơi game. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, bị cáo trả tiền chơi game xong, lợi dụng lúc không ai chú ý, bị cáo đi ra lấy chìa khóa xe mở khóa công tắc chiếm đoạt xe rồi tẩu thoát.

Bị cáo điều khiển xe đến cửa hàng dịch vụ game bắn cá trên đường số 1, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm bạn tên Thái Đình Anh V nhưng không gặp. Tại đây, bị cáo gặp một thanh niên tên K (không rõ lai lịch) và nói cho K biết cần bán xe vừa chiếm đoạt được. Sau đó bị cáo tiếp tục điều khiển xe đến cửa hàng dịch vụ Internet T (Địa chỉ: đường số 14, Khu phố 5, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh). Bị cáo dùng mạng xã hội Facebook nhắn tin cho V tìm nơi bán xe. Khoảng 15 phút sau, V đến và mở công tắc xe thì làm gãy chìa khóa. Do V không biết chỗ bán xe nên đi vào trong chơi game. Khoảng 10 phút sau, K điều khiển xe (không rõ biển số) đến gặp bị cáo. Do xe bị gãy chìa khóa, không nổ được máy nên bị cáo ngồi lên xe mô tô biển số 59Y1-468.83 cho K điều khiển xe của K đẩy đi đến phường A, T, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, bị cáo đứng ngoài chờ, K đẩy xe mô tô biển số 59Y1-468.83 đi bán được 4.500.000 đồng. Bị cáo cho K 500.000 đồng, còn lại 4.000.000 đồng tiêu xài hết.

Bà T trích xuất hình ảnh camera thu được thì xác định bị cáo đã chiếm đoạt xe nên đến Công an xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh để trình báo. Qua truy xét, Công an xã A đã giữ được bị cáo.

Sau khi được cho tại ngoại điều tra thì bị cáo đã bỏ trốn. Đến ngày 03/12/2018, bị cáo bị bắt theo quyết định truy nã. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện.

Kết luận định giá tài sản số 1445/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 09/8/2018 và Kết luận định giá tài sản số 2398/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 05/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tại thời điểm bị chiếm đoạt, xe mô tô biển số 59Y1-468.83 có giá trị 33.950.000 đồng (Ba mươi ba triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 37/CT-VKS, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 91; Điều 101; Khoản 1 Điều 173; Điểm i và s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị báo từ 6 (Sáu) đến 9 (Chín) tháng tù và chấp nhận yêu cầu của bà T về việc buộc ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Kim L phải bồi thường thiệt hại 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Đồng thời, đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Luật sư Huỳnh Khắc T trình bày lời bào chữa cho bị cáo: Luật sư thống nhất về quan điểm truy tố, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các quy định áp dụng đối với người chưa đủ 18 tuổi phạm tội và trách nhiệm dân sự như đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tuyên phạt bị cáo mức án 06 (Sáu) tháng tù là phù hợp vì người bị hại cũng đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản phù hợp với nội dung cáo trạng đã được tóm tắt nêu trên, không tự bào chữa, không tranh luận và thể hiện sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và các đương sự có mặt,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng T khai nhận: Ngày 19/7/2018, bị cáo đến tiệm Internet K tại địa chỉ Ấp 3, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh để chơi game và phát hiện chiếc xe mô tô hiệu Vaspa LX125 màu đỏ biển số 59Y1-468.83 của bà Lý Thị Thu T để sơ hở, chìa chìa khóa cắm ở khóa yên xe nên đã lén lút, bí mật chiếm đoạt đem bán lấy tiền tiêu xài.

Lời khai nhận nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, trong quá trình điều tra và lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Kết luận định giá tài sản số 1445/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 09/8/2018 và Kết luận định giá tài sản số 2398/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 05/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định: Tại thời điểm bị chiếm đoạt, xe mô tô biển số 59Y1-468.83 của chị Lý Thị Thu T có giá trị 33.950.000 đồng (Ba mươi ba triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng). Như vậy, hành vi này của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố là đúng người, đúng tội.

[3] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội cố ý, lợi dụng lúc chủ sở hữu tài sản sơ hở, không để ý tài sản rồi lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật. Mục đích phạm tội là để có tiền tiêu xài cá nhân và sử dụng ma túy. Hành vi này của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu tài sản được nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương. Tội phạm đã hoàn thành. Trong quá trình được tại ngoại điều tra bị cáo lại bỏ trốn nhưng đã bị bắt theo lệnh truy nã. Tài sản bị trộm cắp chưa được thu hồi mà người bị hại vẫn chưa được bồi thường thiệt hại. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để đủ tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân tốt, thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên khả năng nhận thức còn hạn chế, được người bị hại đề nghị giảm nhẹ mức hình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Ngoài ra, do khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nên còn được áp dụng Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) để quyết định mức hình phạt cho phù hợp.

[5] Đối với người tên K (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đã giúp bị cáo tiêu thụ chiếc xe Vaspa LX125, biển số 59Y1- 468.83 thì Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

[6] Đối với Thái Đình Anh V không khai nhận biết xe do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa đủ căn cứ để xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bà T, bị cáo và bà L thống nhất bồi thường thiệt hại đối với chiếc xe Vaspa LX125, biển số 59Y1-468.83 với số tiền là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng). Do bị cáo không có tài sản riêng buộc người đại diện hợp pháp cho bị cáo phải bồi thường cho người bị hại là phù hợp với quy định Khoản 2 Điều 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án:

- 01 USB (do bà T giao nộp) lưu giữ hình ảnh bị cáo trộm cắp xe mô tô biển số 59Y1-468.83. Dữ liệu điện tử này là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên tiếp tục lưu vào hồ sơ vụ án.

- 01 áo sơ mi tay dài màu xanh, trên ngực áo bên trái có hình hoa sen màu trắng; 01 quần jean màu đen hiệu “Polo”; 01 đôi dép nhựa mày đen. Đây là các vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tịch thu và tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm; ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Kim L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Trọng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 91; Điều 101; Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Trần Trọng T 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/12/2018.

2. Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 2 Điều 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015:

2.1. Buộc ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Kim L là cha, mẹ của bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho bà Lý Thị Thu T số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

2.2. Tịch thu và lưu giữ trong hồ sơ vụ án: 01 USB (Bị hại T giao nộp) lưu giữ hình ảnh bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 59Y1-468.83.

2.3. Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo sơ mi tay dài màu xanh, trên ngực áo bên trái có hình hoa sen màu trắng; 01 quần jean màu đen hiệu “Polo”; 01 đôi dép nhựa mày đen. Các vật chứng này hiện này đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định chuyển vật chứng số 18/QĐ-VKS ngày 14/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

3. Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Ông Trần Thanh H và bà Nguyễn Thị Kim L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.500.000 đồng (Một triệu, năm trăm nghìn đồng).

4. Căn cứ vào Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015: Kể từ ngày bà Lý Thị Thu T có đơn yêu cầu thi hành án khoản tiền bồi thường nêu trên, nếu ông Trần Thanh H, bà Nguyễn Thị Kim L chậm thi hành thì phải trả lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành tại thời điểm thi hành.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

5. Quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (28/02/2019), bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bà Nguyễn Thị Kim L, bà Lý Thị Thu T được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về