Bản án 43/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 43/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận B, Thành phố Hà Nội, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2019/HSST, ngày 13 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/HS-QĐ ngày 13/02/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Thiện T, sinh năm 1986; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Q, huyện T, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Vũ Thiện A, sinh năm 1958; Con bà: Phạm Thị B, sinh năm 1960; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Danh chỉ bản số 29 lập ngày 05/12/2018 tại Công an quận B, Thành phố Hà Nội; Tiền sự: Không; Tiền án: Bản án số 279/2017/HSST, ngày 30/08/2017 Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản - đã chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 28/5/2018. (Chưa được xóa án tích); Nhân thân: Bản án số 153/2014/HSST ngày 19/09/2014 Tòa án nhân dân huyện S, Thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản - đã chấp hành xong hình phạt. ( Đã được xóa án tích); Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giam, tạm giữ từ ngày 26/11/2018 tại trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt).

- Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1999. Địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện Đ, Thành phố Hà Nội (Vắng mặt).

2. Chị Phạm Ngọc H, sinh năm 1998. HKTT: xã N, huyện T, tỉnh H. Địa chỉ: Số A, phường Đ, quận B, Thành phố Hà Nội (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 26/11/2018, tại điểm dừng đỗ xe bus ở ngã ba Điện Cơ, đường Đ, phường Đ, quận B, Thành phố Hà Nội, tổ công tác Công an phường Đ - Công an quận B, Thành phố Hà Nội, đã phát hiện và bắt quả tang Vũ Thiện T có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng bạc của chị Nguyễn Thị Ngọc T. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và dẫn giải đối tượng về trụ sở để làm rõ.

Cùng ngày 26/11/2018, chị Phạm Ngọc H đến Công an phường Đ trình báo về việc bị trộm cắp 01 chiếc ví da màu xanh - ghi có ghi chữ Prettyzys bên trong có thẻ thư viện, thẻ sinh viên, chứng minh thư, giấy phép lái xe, bảo hiểm y tế mang tên chị.

Vật chứng thu giữ:

Thu giữ của Vũ Thiện T:

- 01 chiếc dao lam màu bạc bị bẻ đôi kích thước (4x1) cm.

- 01 chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu trắng bạc, đã qua sử dụng, ốp nhựa hình lá cây.

- 01 chiếc ví da màu xanh- ghi có ghi chữ Prettyzys bên trong có thẻ thư viện, thẻ sinh viên, chứng minh thư, giấy phép lái xe, bảo hiểm y tế mang tên Phạm Ngọc H.

Thu giữ của chị Nguyễn Thị Ngọc T:

- 01 túi bằng vải màu trắng xanh, quai đeo bằng vải màu đen, kích thước khoảng (30x 30) cm, đã qua sử dụng, có vết rách ở đáy túi kích thước khoảng 8 cm.

* Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 165 ngày 03/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận B xác định:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng bạc, 64GB, số Imei 352090078282840, tài sản đã qua sử dụng, hiện vẫn còn sử dụng được, trị giá 3.000.000 đồng.

- 01 ví da nữ màu xanh ghi ( loại ví gập) có ghi chữ Prettyzys, tài sản đã qua sử dụng, hiện vẫn còn sử dụng được, trị giá 100.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản là: 3.100.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 11h00 ngày 26/11/2018, Vũ Thiện T đi xe bus từ đường Giải Phóng, quận H, Thành phố Hà Nội đến khu vực phường Đ, quận B, Thành phố Hà Nội để tìm phòng trọ. Khi xe bus đi đến khu vực đường P, phường X, quận B, Thành phố Hà Nội, T thấy chị Phạm Ngọc H đeo ba lô đứng quay lưng lại phía T. Quan sát thấy ba lô chưa kéo hết khóa, bên trong có 01 ví nên T nảy sinh ý định trộm cắp. T đi sát đến phía sau chị H, dùng tay phải trộm cắp chiếc ví da màu xanh- ghi, sau đó T giấu chiếc ví đã trộm cắp được vào túi quần bên trái của mình. Khi xe bus tiếp tục đi đến gần điểm chờ tại Tổ dân phố A, phường Đ, quận B, Thành phố Hà Nội, thì chị Nguyễn Thị Ngọc T đi qua chỗ T làm chạm túi vải màu trắng- xanh vào người T. T thấy trong túi vải của chị T có vật cứng nên đoán trong túi có điện thoại, liền nảy ý định tiếp tục trộm cắp. T đi đến phía sau chị T, dùng dao lam rạch rách đáy túi của chị T, dùng tay phải thò qua vết rách ở đáy túi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu trắng- bạc. Lúc này xe bus đến điểm chờ và dừng lại. Đúng lúc này, T bị chị T phát hiện hô hoán nên nhảy xuống xe bỏ chạy nên đã bị tổ công tác Công an phường Đ bắt giữ.

Tại cơ quan điều tra Vũ Thiện T khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên và khai: Mục đích trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài cá nhân; Chiếc dao lam T mang theo với mục đích để cạo râu nhưng sau đó T đã dùng để rạch túi trộm cắp tài sản.

Chị Nguyễn Thị Ngọc T trình bày: Khi chị đang chuẩn bị xuống điểm dừng xe bus trên đường Đ thì thấy có 01 nam thanh niên chạm vào túi. Quay lại, chị thấy T dùng tay lấy điện thoại Iphone của chị trong túi vải. Khi chị hô hoán thì T cầm theo chiếc điện thoại và bỏ chạy xuống đường, lúc này có lực lượng công an gần đó cùng người dân bắt giữ được T cùng vật chứng.

Ngày 25/12/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B ra quyết định xử lý vật chứng số 29 trao trả chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng bạc (64 GB, số Imei 352090078282840); 01 túi vải màu trắng xanh, quai đeo bằng vải màu đen, kích thước khoảng (35 cm x 30) cm đã qua sử dụng cho chị Nguyễn Thị Ngọc T; trao trả ví da màu xanh- ghi có ghi chữ Prettyzys bên trong có thẻ thư viện, thẻ sinh viên, chứng minh thư, giấy phép lái xe, bảo hiểm y tế đều mang tên Phạm Ngọc H cho chị Phạm Ngọc H. Đối với chiếc túi vải do vết rách nhỏ, chị T vẫn sử dụng được nên không có yêu cầu bồi thường. Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Bản cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 12/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận B truy tố bị cáoVũ Thiện T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Thiện T khai nhận hành vi phạm tội như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận B truy tố bị cáo.

Những bị hại trong vụ án là chị Phạm Ngọc H, chị Nguyễn Thị Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Chị H, chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Vũ Thiện T về tội: “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Vũ Thiện T mức án từ 15 – 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu về bồi thường dân sự, vì vậy không xét. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của bị cáo và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận B, Thành phố Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Thành phố Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và vật chứng được thu giữ cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng từ 11 giờ đến 12 giờ 30 phút ngày 26/11/2018, tại khu vực phường Đ – phường X, quận B, Thành phố Hà Nội, bị cáo Vũ Thiện T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu trắng bạc của chị Nguyễn Thị Ngọc T có trị giá 3.000.000 đồng và 01 chiếc ví da màu xanh- ghi của chị Phạm Ngọc H có trị giá 100.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt được là 3.100.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo Vũ Thiện T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáoVũ Thiện T là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an trong khu vực, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là thanh niên có sức khỏe nhưng không chịu học tập, lao động để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà liên tục lợi dụng sơ hở của chủ tài sản trên các tuyến xe buýt để thực hiện hành vi móc túi chiếm đoạt tài sản của người khác.

Nhân thân của bị cáo xấu, bị cáo đã có 02 tiền án đều về tội trộm cắp tài sản trên các tuyến xe Buýt, trong đó có 01 (một) tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm và phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Điều này thể hiện, bị cáo đã được các cơ quan bảo vệ pháp luật cảm hóa giáo dục nhiều lần, tuy nhiên do bản chất của bị cáo khó cải tạo nên phải ra một bản án phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Vì vậy giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Những bị hại trong vụ án là chị H, chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc dao lam màu bạc bẻ đôi kích thước (4x1) cm là công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Vũ Thiện T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Áp dụng Điều 106, Điều 331, Điều 333, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Áp dụng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

1. Xử phạt bị cáo: Vũ Thiện T 18 (mười tám) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 26/11/2018.

2. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc dao lam màu bạc bẻ đôi kích thước (4x1) cm là công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

(Vật chứng trên được xử lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 97/19, ngày25 tháng 2 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận B với Chi cục thi hành án dân sự quận B).

3. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về