Bản án 43/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 43/2019/HSST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2019/HSST ngày 20 tháng 3 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Văn H (tên gọi khác: Không); sinh ngày 20 tháng 6 năm 1987 tại huyện D, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Khối 2, Thị trấn D, huyện D, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương Văn H1 (đã chết) và con bà: Đậu Thị Hoài Th (đã chết); vợ: Hoàng Thị H, sinh năm 1990, con: 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/01/2019 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Chị Trần Thị L , sinh 1995

Nơi cư trú: Xóm 2, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 11/01/2019, Trương Văn H đi đến cổng khánh sạn Mường Thanh thuộc khối 4 thị trấn D gặp một người bạn là bạn nghiện mới quen nhưng H không biết tên, tuổi và địa chỉ, chỉ biết người đó ở huyện Y, tỉnh Nghệ An. H hỏi người đàn ông đó “anh có hồng không cho e một ít”; Người đó nói với H “ anh còn một ít cầm đây mà chơi” và lấy trong người ra 1 gói bên ngoài được gói bằng mảnh giấy bạc màu trắng đưa cho H. H cầm gói hồng phiến đi về nhà mở ra thì thấy bên trong có chứa 20 viên hồng phiến, H sử dụng hết 05 viên, còn 15 viên H gói lại bỏ sau túi quần.

Khoảng 16 giờ ngày 12/01/2019, H đi đến nhà chị Trần Thị L chơi, khi đến H để 15 viên hồng phiến còn lại trong túi quần phía trước bên phải. Đến khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, khi H đang ở nhà chị L thì bị Tổ công tác Công an huyện D kiểm tra phát hiện và bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của H 15 viên màu nén màu hồng nghi là ma túy. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và tiếp tục điều tra làm rõ.

Theo biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 13/01/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D xác định 15 viên nén màu hồng thu giữ của Trương Văn H có khối lượng 1,55 gam.

Kết luận giám định số 275/KL-PC54 (MT) ngày 15/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Trương Văn H gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 1,55 gam.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKSDC ngày 13/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo: Trương Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 09 (chín) tháng tù đến 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của Trương Văn H.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, Trương Văn H khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy nên vào khoảng 16 giờ 15 phút ngày 12/01/2019 tại nhà chị Trần Thị L thuộc xóm 2, xã DT. Trương Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,55 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an huyện D kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.

Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích phạm tội nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu cá nhân của mình. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trương Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Tính chất vụ án nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích mua ma túy về để sử dụng. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày sau khi tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội bị cáo đã tích cực hợp tác với Công an huyện D trong việc tố giác tin báo tội phạm vụ án “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” được Công an huyện D xác nhận. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Trong vụ án này người đàn ông đưa ma túy cho Trương Văn H. Do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[5] Vật chứng: Căn cứ khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo vật chứng gồm: 01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí hình sự: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Trương Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Bị cáo Trương Văn H phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trương Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 12/01/2019.

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 bộ luật hình sự và căn cứ điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong gián kín bên trong chứa ma túy là vật chứng vụ án. Toàn bộ vật chứng hiện đang bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện D theo phiếu nhập kho số 50 ngày 19 tháng 3 năm 2019.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Trương Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HSST ngày 18/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về