Bản án 43/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 43/2019/HS-ST NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2019/HSST ngày 08 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2019/QĐXXST- HS ngày 22/3/2019 đối với bị cáo:

Trần Minh T; giới tính: Nam; sinh ngày 08/8/1994; đăng ký hộ khẩuthường trú và nơi cư trú: Thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; con ông: Trần Văn S, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; đều trú tại: thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Thái Bình; gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/12/2018 đến ngày 24/12/2018 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình, bị cáo bị trích xuất có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1. Anh Phạm Việt H, sinh năm 1973, trú tại: Số nhà 17, tổ 22, phường X, thành phố B, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

2. Ông Đỗ Minh L, sinh năm 1968, trú tại: Số nhà 55, ngõ 313, đường B, tổ 46, phường X, thành phố B, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 21/12/2018, bị cáo Trần Minh T đi xe buýt từ nhà đến khu vực bến xe khách Thái Bình, tổ 47, phường X, thành phố B mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Đến nơi, bị cáo T gặp và mua của 01 người nam giới khoảng 40 tuổi, không biết tên địa chỉ 01 gói ma túy, bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng với giá 200.000 đồng, Bị cáo nhận ma túy cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ tìm chỗ để sử dụng. Khi bị cáo T đi đến khu vực ngã ba đường B + Nguyễn Thị Minh K, tổ 51, phường X, thành phố B thì bị tổ công tác Công an phường Bồ Xuyên yêu cầu dừng lại kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Phạm Việt H và ông Đỗ Minh L, bị cáo tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo T khai nhận là Hêrôin vừa mua để sử dụng. Tổ công tác gói lại và niêm phong vào phong bì dán kín trên mép có chữ ký của bị cáo T và người chứng kiến. Sau đó tổ công tác yêu cầu bị cáo, mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Bồ Xuyên để kiểm tra. Qua kiểm tra không phát hiện thu giữ gì. Sau đó tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 457/KLGĐ-PC09 ngày 21/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu gửi giám định thu của Trần Minh T là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,1391gam (Không phẩy một nghìn ba trăm chín mươi mốt gam)”.

Cáo trạng số 44/CT-VKSTP ngày 07/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Trần Minh T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Minh T mức án từ 01 năm đến 01 năm03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố, không tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

 [2] Tại phiên toà, bị cáo Trần  Minh T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng minh bởi các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 21/12/2018 (bút lục số 03-04); biên bản niêm phong vật chứng do Công an phường Bồ Xuyên, thành phố Thái Bình lập hồi 11 giờ 30 phút ngày 21/12/2018 (bút lục số 05); bản kết luận giám định số 457/KLGĐ-PC09 ngày 21/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 11); bản tự khai và biên bản ghi lời khai của người chứng kiến là anh Phạm Văn H và ông Đỗ Minh L (bút lục số 43 đến 52). Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 20 phút ngày 21/12/2018, tại khu vực ngã ba đường B + Nguyễn Thị Minh K thuộc tổ 51, phường X, thành phố B, Trần Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1391 gam (không phẩy một nghìn ba trăm chín mươi mốt gam) ma tuý, loại Hêrôin mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì  bị phạt tù từ 01 năm  đến 05 năm. a)…c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

 [3] Xét tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma tuý đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, ma tuý còn gây ra biết bao hiểm hoạ nghiêm trọng khác cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm, là tác nhân lan truyền đại dịch thế kỷ HIV-AIDS, là yếu tố phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình có người nghiện…Tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

 [4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Trần Minh T có nhân thân tốt. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có việc làm và thu nhập không ổn định, tàng trữ ma túy khối lượng ít nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [5] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo T khai mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ ở khu vực bến xe khách Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

 [6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy.

 [7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều 50; điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106; điều 135; điều 136 Bộ luật Tố tụng hình  sự; điều  21;  điều  23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016.

1. Về tội danh: Bị cáo Trần Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Minh T 01 (một) năm tù, thời hạn tùtính từ ngày 21/12/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 457/KLGĐ mẫu vật hoàn trả sau giám định. (Vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 08/3/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơthẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/4/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về