Bản án 43/2018/HS-ST ngày 30/07/2018 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 30/07/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 30 tháng 07 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2018/HSST- HS ngày 04/07/2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/QĐXXST-HS ngày 19/07/2018 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Đăng D. Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Sinh năm 1984; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Họ và tên bố: Nguyễn Đăng N, sinh năm 1955; Họ và tên mẹ: Lê Thị Th, sinh năm 1957; Gia đình có 02 chị em, bản thân là thứ hai; Vợ: Trương Thị Thúy H, sinh năm 1984; Con: Bị cáo có 02 con; con lớn nhất sinh năm 2008; con nhỏ nhất sinh năm 2012;

- Nhân thân: Không.

- Tiền án: Bản án số 47 ngày 30/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị can đã chấp hành xong án phí ngày 27/8/2013; chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/5/2015. Bị can chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung 5.000.000đ.

- Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/3/2018 đến nay. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Bắc Giang.( có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh Ngô Xuân Tr, sinh năm 1968

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang(có mặt)

- Người liên quan: Chị Dương Thị Th, sinh năm 1975

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang .( có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nộidung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/12/2017, Nguyễn Đăng D, sinh năm 1984 ở thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang điều khiển xe mô tô đi từ nhà để sang Bố Hạ, huyện Yên Thế để lấy tiền công đi làm. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn A, xã B, huyện C thì có điện thoại, D đỗ xe và ngồi trên xe nói chuyện. Cùng lúc này anh Ngô Xuân Tr, sinh năm 1968 ở thôn A, xã B, huyện C đi ăn cỗ về gặp D hỏi “Mày rẽ hay đi như thế nào” thì D trả lời “Em nghe điện thoại có sao không anh” rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô về phía trước (Quá trình ăn cỗngười làm chứng có thấy anh Tr uống rượu). Khi giữa D và anh Tr lời qua tiếng lại thì anh Ninh Việt H, sinh năm 1987 ở thôn A, xã B, huyện C đi qua chứng kiến vụ việc. Theo lời khai của D và anh H thì anh Tr túm D lại không cho Dđi và dùng tay tát vào mặt D. Thấy D bị anh Triều đánh nên anh H bảo anh Tr sai và xin lỗi nhưng anh Tr bảo “Tao chả phải xin lỗi thằng nào”. Nghe thấy anh Tr nói vậy, D bực tức do bị đánh vô cớ mà không được xin lỗi nên đã lao vào dùng chân tay không đánh anh Tr nhưng không trúng. D tiếp tục nhặt gạch ném về phía anh Tri 02 lần nhưng không trúng. Thấy bị ném, anh Tr đang đứng ở bậc thềm trước cửa nhà đuổi theo D. Bị anh Tr đuổi, D chạy về phía xã Đào Mỹ khoảng 15-20m thì bị vấp ngã. Theo D khai thì khi bị ngã anh Tr chạy tới dùng dùi cui điện dí vào sườn bên trái. Sau đó, D vùng dậy chạy ngược về phía xã Nghĩa Hưng và anh Tr tiếp tục đuổi theo phía sau. Khi chạy đến lề đường đối diện với cửa nhà anh Tri, D cúi xuống dùng tay phải nhặt 01 viên gạch vỡ dính bê tông rồi xoay người lại ném về phía anh Tr đang đuổi tới làm trúng vùng trán anh Tr khiến anh Tr ngã gục xuống đường. Sau đó, D bỏ đi còn anh Tr được mọi người đưa đi viện cấp cứu và điều trị đến ngày 29/12/2017. Ngày 02/01/2018, anh Ngô Xuân Tr làm đơn đề nghị khởi tố đối tượng gây thương tích cho mình (BL 139).

Sau khi vụ việc xảy ra, ngày 10/01/2018, Cơ quan điều tra đã xác định hiện trường và thu giữ, niêm phong 03 viên gạch vỡ để phục vụ điều tra (BL18). Ngày 12/3/2018, Nguyễn Đăng D bị bắt tạm giam để điều tra.

Sau khi bị D gây thương tích, anh Tr được mọi người đưa đi cấp cứu. Tại giấy chứng nhận thương tích ban đầu ngày 19/01/2018 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang xác định:

Ông Ngô Xuân Tr vào viện lúc 16 giờ 00 phút, ngày 20 tháng 12 năm2017, tình trạng thương tích lúc vào viện: Bệnh nhân lơ mơ; Da niêm mạc hồng; Đau đầu, không nôn; vết thương trán đã khâu, sưng nề; CT Scannes: SN 64 dẫy: Tụ ngoài màng cứng thùy trán trái. Vỡ xương gò má trái, trần ổ mắt, xương trán, cánh lớn, cánh nhỏ xương bướm trái (BL 68).

Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 8123/18/TgT ngày12/02/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bắc Giang thể hiện: Tỷ lệ thương tổn của Ngô Xuân Tr do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 35% (Ba năm phần trăm). Trong đó:

- Thương tích vết sẹo hình sao giữa trán + Vết sẹo mổ vùng trán + Tụ máu ngoài màng cứng thùy trán trái + CT Scanner sọ não: Vở trần ổ mắt trái + Điện não đồ: Hoạt động tổn thương dạng trấn động não: 29%.

- Thương tích gãy cung tiếp gò má trái: 8%

Cơ chế, vật gây thương tích: Các thương tích do vật cứng gây nên.” (BL 66, 67).

Các ngày 14/3/2018 và 26/4/2018, Cơ quan điều tra tiến hành cho bị hại anh Tr và người làm chứng anh Ngô Văn L, sinh năm 1975 và anh Dương Quang T, sinh năm 1975 cùng ở thôn A, xã B, huyện C thực nghiệm điều tra diễn tả lại hành vi của bị can D gây thương tích cho anh Tr. Kết quả cả bị hại và người làm chứng đã mô tả và diễn thành thục các động tác, phù hợp với lời khai của mình và cơ chế hình thành thương tích trên cơ thể anh Tr.

Ngày 10/5/2018, Cơ quan điều tra tiến hành cho bị can D thực nghiệm điều tra diễn tả lại hành vi của bị can gây thương tích cho anh Tr. Kết quả bị can, đã mô tả và diễn thành thục các động tác, phù hợp với lời khai nhận tội của bị can và phù hợp với các tài liệu điều tra khác (BL 45).

Như vậy, có căn cứ xác định toàn bộ thương tích của anh Ngô Xuân Tr là do Nguyễn Đăng D dùng gạch vỡ ném gây nên.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Tr yêu cầu bị can D phải bồi thường chi phí chữa trị, tiền mất thu nhập, tiền tổn thất tinh thần và các chi phí khác với tổng số tiền là 37.000.000 đồng. Đến nay, Dchưa bồi thường cho anh Tr.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố bị can D thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; có căn cứ xác định bị hại là anh Tr đánh D trước nên anh Tr cũng có một phần lỗi, nên Dđược áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999;

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Dcó 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nay lại phạm tội nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999.

Ngoài ra Nguyễn Đăng D khai bị anh Tr dùng dùi cui điện để dí vào người. Tuy nhiên, anh Trkhông thừa nhận hành vi trên. Người làm chứng anh H cũng không xác định chắc chắn đó là dùi cui điện, những nhân chứng khác không nhìn rõ. Do vậy, chưa có đủ căn cứ để Cơ quan điều tra xử lý đối với anh Ngô Xuân Tr về hành vi này.

Vật chứng là 03 viên gạch vỡ có hình dạng, kích thước khác nhau, được niêm phong bằng giấy trắng có chữ ký của Nguyễn Đăng D và đóng dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạng Giang, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng và chuyển để giải quyết cùng vụ án.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đăng D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 43/2018/CT-VKS LG ngày 04/07/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Đăng D về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015).

Tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và trình bày: Bị cáo là người trực tiếp ném anh Tri, nguyên nhân là do anh Tr gây sự trước, bị cáo có biết anh Tr phải đi viện và phải điều trị. Nay anh Tr yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổng số tiền là37.000.000 đồng bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của anh Tr. Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại anh Ngô Xuân Tr có ý kiến: Sau khi bị D gây thương tích anh có được gia đình đưa đi bệnh viện cấp cứu và điều trị, nay anh yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh tiền viện phí, tiền thuốc, tiền tổn thất tinh thần, phục hồi sức khỏe, tiền công ngươi chăm sóc, tổng số tiền là 37.000.000đồng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đồng ý bồi thường cho anh số tiền 37.000.000đồng anh đồng ý và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người liên quan chị Dương Thị Th trình bày: Chị không chứng kiến việc D ném chồng chị, khi chị đi ra thì chồng chị đã bị ném rồi, Sau khi chồng chị bị ném thì chị là người đưa đi viện, trong thời gian chồng chị nằm việc thì chị là người chăm nom, chăm sóc, thời gian đó chị phải nghỉ làm mất 10 ngày, chị hiện làm cong nhận, thu nhập là 4.500.000đồng/ tháng.

Tại phiên tòa toàn bộ những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa Hội đòng xét xử đã công bố lời khai của những người này tại cơ quan điều tra, bị cáo không có ý kiến gì.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang phát biểu lời luận tội đối với bị cáo, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố: Đề nghị HĐXX: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đăng D, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo D phạm tội “cố ý gây thương tích” và áp dụng điểm c khoản 3 điều 134; khoản 3 điều 7; điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017của Quốc hội hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng D từ 5 năm 06 tháng đến 06 năm tù, thời hạntù tính từ ngày bị tạm giam 12/3/2018.Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584; Điều 585; Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015.

Chấp nhận sự nguyện nguyện bồi thường của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Đăng D phải bồi thường cho anh Ngô Xuân Tr số tiền: 37.000.000đồng( bao gồm: tiền viện phí; tiền thuốc có hóa đơn; tiền tổn thất tinh thần; tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe; tiền công người chăm sóc).

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 03 viên gạc vỡ có hình dạng kích thước khác nhau, mỗi viên được niêm phong bằng giấy trắng có chữ ký của Nguyễn Đăng D và đóng dấu của cơ quan CSĐT Công an huyện Lạng Giang.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Điều 5, Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải chịu án phí HSST và án phí DSST theo quy định./.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, tình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Nội dung vụ án: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 20/12/2017, tại đoạn đường thuộc thôn Nùa Quán, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, do mâu thuẫn cá nhân, Nguyễn Đăng D đã dùng 01 nửa viên gạch vỡ, bám dính bê tông ném gây thương tích cho anh Ngô Xuân Tri: Thương tích vết sẹo hình sao giữa trán + Vết sẹo mổ vùng trán + Tụ máu ngoài màng cứng thùy trán trái + CT Scanner sọ não: Vở trần ổ mắt trái + Điện não đồ: Hoạt động tổn thương dạng trấn động não: 29%; Thương tích gãy cung tiếp gò má trái: 8%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại của Ngô Xuân Tr là 35 %.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả thực nghiệm điều tra, với các kết luận giám định , phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cũng như vật chứng đã thu hồi, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, phù hợp với không gian, thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội.

Từ những căn cứ trên, có đủ cơ sở để xác định bị cáo Nguyễn Đăng D đã có hành vi gây thương tích cho anh Ngô Xuân Tr với tỷ lệ tổn thương sức khỏe 35%. HĐXX xét thấy Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang truy tố bị cáo theo điểm c khoản 3 điều 134 Bộ luật hình sự 2015 với tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a, khoản 1 điều 134 là đúng pháp luật. Bản cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [2] Về nhân thân, Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân sấu năm 2013 đã bị Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang xét xử 02 năm từ về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội chứng tỏ bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo năm 2013 phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa hôm nay bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, việc bị cáo phạm tội cũng một phần lỗi xuất phát từ bị hại nên được áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do bị cáo phạm tội trước ngày Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực pháp luật.Tuy nhiên khi quyết định mức hình phạt, HĐXX căn cứ vào Nghị quyết 41/QH14 ngày 20/6/2017của Quốc hội hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Công văn 04/TANDTC-PC ngày 09 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân Tối cao áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội đối với bị cáo. Qua so sánh giữa khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 và khoản 3 Điều 134 BLHS 2015 thì thấy:

- Đối với quy định về mức hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 134 BLHS 2015 là từ 5-10 năm, nhẹ hơn mức 5-15năm quy định tại khoản 3 Điều 104BLHS 1999, để có lợi cho bị cáo nên HĐXX áp dụng mức hình phạt quy định tại điểm khoản 3 Điều 134 BLHS 2015.

Từ những đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo D, HĐXX cân nhắc mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo. Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần phảicách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo,giáo dục bị cáo thành công dân sống có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Qua xác minh tại địa phương thì thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản riêng nên cần miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại anh Tr số tiền 37.000.000đồng như anh Tr yêu cầu. Xét thấy sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại tại phiên tòa hôm nay không trái quy định của pháp luật. Do vậy chấp nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáovà bị hại. Bị cáo Nguyễn Đăng D phải bồi thường cho anh Ngô Xuân Tr số tiền: 37.000.000đồng( bao gồm: tiền viện phí; tiền thuốc có hóa đơn; tiền tổn thất tinh thần; tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe; tiền công người chăm sóc).

[4] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 03 viên gạc vỡ có hình dạng kíchthước khác nhau, mỗi viên được niêm phong bằng giấy trắng có chữ ký của Nguyễn Đăng D và đóng dấu của cơ quan CSĐT Công an huyện Lạng Giang.

 [5] Ngoài ra Nguyễn Đăng D khai bị anh Tr dùng dùi cui điện để dí vào người. Tuy nhiên, anh Tr không thừa nhận hành vi trên. Người làm chứng anh H cũng không xác định chắc chắn đó là dùi cui điện, những nhân chứng khác không nhìn rõ. Do vậy, chưa có đủ căn cứ để Cơ quan điều tra xử lý đối với anh Ngô Xuân Tr về hành vi này.

 [6] Bị cáo phải chịu án phí HSST và án phí DSST theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1].Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng D phạm tội "Cố ý gây thương tích".

Căn cứ điểm c khoản 3 điều 134; Điều 7; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ các điều 106; Điều 135, 136, Điều 332, 333, 336, 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

[2]. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đăng D 5 (năm) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 12/3/2018.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584; Điều 585; Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015.

Chấp nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại. Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại anh Ngô Xuân Tr số tiền 37.000.000đồng ( Ba mươi bẩy triệu đồng)

Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu bên phải thi hành không thi hành thì hàng tháng còn phải trả cho bên được thi hành số tiền lãi theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chưa thi hành số tiền còn phải trả.

[4]. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 03 viên gạc vỡ có hình dạng kích thước khác nhau, mỗi viên được niêm phong bằng giấy trắng có chữ ký của Nguyễn Đăng D và đóng dấu của cơ quan CSĐT Công an huyện Lạng Giang.

 [5]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Đăng D phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm và 925.000đồng án phí DSST.

 [6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 30/07/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về