Bản án 43/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

PHAN THANH H sinh ngày 30 tháng 10 năm 1985 tại Tuyên Quang; Nơi cư trú: Tổ 8, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Lạc H1 và bà Bùi Thuý H2; Chồng: Lê Quang T (đã ly hôn tháng 4/2018) và có 03 con;

Tiền án: Ngày 21/8/2015 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 69/2015/HSST ngày 21/8/2015);

Tiền sự: Ngày 10/8/2017 Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền (số tiền phạt 1.500.000đồng);

Nhân thân: Ngày 28/11/2011 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” (Bản án số 118/2011/HSST ngày 28/11/2011).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2018 đến ngày 04/01/2018, thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Ngày 07 tháng 5 năm 2018 bị cáo tự nguyện chấp hành án hình phạt tù của Bản án số 69/2015/HSST ngày 21/8/2015 của TAND thành phố Tuyên Quang. Hiện bị cáo đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang từ, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Lê Minh H3, sinh năm 1988. Trú tại xóm T, xã C, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

+ Anh Vũ Văn Q, sinh năm 1984. Trú tại tổ 20, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

+ Anh Lê Hoài Ph, sinh năm 1991. Trú tại tổ 01, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

+ Anh Quan Văn Q, sinh năm 1991. Trú tại xóm 25, xã K, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 30/12/2017, Phan Thanh H được một người quen tên H5, ở thành phố Hà Nội (không xác định được họ tên, địa chỉ nơi ở) gửi qua xe khách cho H 01 chiếc áo rét, trong áo có 01 gói ma túy bọc ngoài bằng túi nilon màu trắng, mép túi viền màu xanh, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng; H lấy một ít ma túy trong gói trên ra sử dụng bằng hình thức đốt, hít vào cơ thể. Số ma túy còn lại, H gói lại và cất giấu vào trong áo khoác treo trong phòng ngủ. Đến khoảng 08 giờ ngày 01/01/2018, H cất giấu trong người 01 gói ma túy trên và đi cùng Lê Minh H3, ở xóm T, xã C, huyện Y; Nguyễn Đăng K (tên thường gọi: Q) ở tổ 15, phường P, thành phố T (hiện K đã chết ngày 01/02/2018) và Vũ Văn Q, ở tổ 20, phường M, thành phố T thuê xe ô tô taxi BKS: 22A- 00000 do Lê Hoài Ph, ở tổ 01, phường T, thành phố T điều khiển xuống Hà Nội chơi. Trên đường đi, H gọi điện thoại cho H5 hẹn gặp nhau ở quán cơm thuộc khu vực đường Vĩnh Hưng, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Tại đây, sau khi ăn cơm xong H5 bảo mọi người vào trong quán sử dụng ma túy; H, H3, Q, Ph sử dụng Methamphetamine (hay còn gọi là ma tuý đá), riêng K sử dụng Heroine (ma túy, bộ đồ sử dụng ma túy đá và bơm kim tiêm do H5 chuẩn bị). Sử dụng ma túy xong, H, H3, Qvà K đi xe taxi do Ph điều khiển về Tuyên Quang, khi đến khu vực cầu Vĩnh Tuy (thuộc thành phố Hà Nội) nghỉ ăn tối thì H5 gọi điện thoại cho H hẹn gặp nhau. Sau đó, H5 cùng 01 người nam thanh niên (không xác định được tên, địa chỉ) đến nói chuyện với H, H3 và để 01 gói bên ngoài bọc bằng băng dính màu đen vào xe taxi. (Sau này H mới biết trong gói đó có bên trong chứa 01 gói nhỏ Methamphetamine và 01 gói Heroine của Hưng để cho H3).

H, H3, Q, K và Ph tiếp tục đi xe taxi về thành phố Tuyên Quang. Khi đến khu vực ngã ba xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, H lấy một ít Methamphetamine để H3, H, Q, K và Ph cùng sử dụng, số còn lại H3 gói lại và cất giấu cùng 01 gói Heroine vào trong người. Khi đến khu vực ngã ba Chanh thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, H3 chia cho H một ít Methamphetamine; H, K, Q xuống xe taxi và sử dụng hết số ma túy H3 đưa còn H3 và Ph đi xe về trước. Sau đó, H, Q, K gọi thuê xe taxi BKS: 22A-056.24 do anh Quan Văn Q, trú tại: xóm 25, xã K, huyện Y điều khiển về đến khu vực tổ 17, phường N, thành phố T thì bị Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Tuyên Quang bắt quả tang hồi 22 giờ cùng ngày. H đã tự giác giao nộp 01 gói bọc ngoài bằng túi nilon màu trắng, mép túi viền màu xanh đóng kín, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, là số ma túy H5 cho vào ngày 30/12/2017.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma tuý đối với H, Q, K, Ph, kết quả (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể; xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể Q, kết quả (-) âm tính, không có chất ma túy trong cơ thể.

Tại Kết luận giám định số 40/GĐKTHS ngày 04/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phan Thanh H gửi giám định là Methamphetamine, là chất ma túy tổng hợp thuộc nhóm ATS, khối lượng 0,696g (không phảy sáu chín sáu gam).

Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKSTP ngày 26/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố Phan Thanh H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a, điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Kết thúc tranh luận tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phan Thanh H và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Phan Thanh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng: Điểm a, điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38; khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Thanh H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù của Bản án số 69/2015/HSST ngày 21/8/2015, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án.

Khấu trừ cho bị cáo 03 ngày tạm giữ từ 01/01/2018 đến ngày 04/01/2018.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án hình phạt tù 07/5/2018.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo và dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong có chứa ma tuý (Methamphetamine) là mẫu giám định hoàn lại; (Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/5/2018 giữa Cơ quan Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên, không trình bày lời bào

chữa, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Bị cáo là đối tượng sử dụng chất matúy từ năm 2013 nên ngày 01/01/2018 bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,696g (không phảy sáu chín sáu gam) Methamphetamine, là chất ma túy tổng hợp thuộc nhóm ATS với mục đích để sử dụng. Ngày 10/8/2017 bị cáo đã bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền (bị cáo chưa thi hành quyết định xử phạt hành chính này). Bị cáo khai nội dung của bản kết luận giám định số 40/GĐKTHS ngày 04/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang là khách quan và chính xác và nội dung bản cáo trạng số 38/CT-VKSTP ngày 26/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a, điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, không oan. Lời khai nhận tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, ... và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phan Thanh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a, điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt bổ sung:

Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 28/11/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”, nay đã được xoá án.

Ngày 21/8/2015 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 69/2015/HSST ngày 21/8/2015); Bị cáo đang được hoãn chấp hành án với lý do: Đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, trong thời gian này bị cáo tiếp tục phạm tội do cố ý vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo tuổi đời còn trẻ, có sức khoẻ nhưng ý thức chấp hành pháp luật kém, không chịu khó tu dưỡng, lao động chân chính mà sớm đi vào con đường phạm tội nên cần áp dụng hình phạt tù nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo bị tạm giữ 03 ngày (từ ngày 01/01/2018 đến ngày04/01/2018) cần khấu trừ cho bị cáo.

Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi và không có tài sản gì nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Trong vụ án này còn có người đàn ông tên H5, theo Phan Thanh H khai đã cho Huyền ma túy, do không xác định được họ tên, địa chỉ nơi ở nên nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với Vũ Văn Q, Lê Hoài Ph và anh Quan Văn Q, do không biết Phan Thanh H tàng trữ trái phép chất ma túy nên không đề cập hình thức xử lý. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Phan Thanh H, Vũ Văn Q, Lê Hoài Ph, Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền (phạt tiền 1.000.000đồng đối với H,phạt tiền 750.000 đồng đối với Q, Ph).

Về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của Lê Minh H3, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can đối với H3 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

 [4] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra và truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung gì về các hành vi, quyết định tố tụng.

[5] Về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo:

Về vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo và dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên quang, bên trong có chứa ma túy (Methamphetamine) là mẫu giám định hoàn lại, đây là vật cấm tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy; (Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/5/2018 giữa Cơ quan Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).

Về án phí:

Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Phan Thanh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điểm a, điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Phan Thanh H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Phan Thanh H 02 năm tù.

Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của Bản án số 69/2015/HSST ngày 21/8/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang.

Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 02 năm 09 tháng tù. Khấu trừ cho bị cáo 03 ngày tạm giữ (từ ngày 01/01/2018 đến ngày 04/01/2018). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án hình phạt tù ngày 07/5/2018.

- Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa ma tuý (Methamphetamine) là mẫu giám định hoàn lại.(Tình trạng vật chứng thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/5/2018 giữa Cơ quan Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).

- Căn cứ vào các Điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm;

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về