Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 43/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2018/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Châu Thị X, sinh năm 1980 (có mặt). Bị đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1978 (vắng mặt). Cùng nơi cư trú: Ấp T, xã L, huyện N, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 02 tháng 5 năm 2018 và bản tự khai ngày 13 tháng 6 năm 2018, nguyên đơn bà Châu Thị X trình bày yêu cầu:

Về hôn nhân: Năm 1997 bà Châu Thị X chung sống như vợ chồng với ông Trần Văn Đ, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương nhưng đến nay vợ chồng bà X vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật vì bận công việc làm ăn kinh tế.

Lý do ly hôn: Quá trình chung sống vợ, chồng thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông Đ thường xuyên đánh đập bà X và do cả hai không tin tưởng vào tình cảm của nhau. Vợ chồng ly thân từ tháng 10 năm 2014 cho đến nay. Khi ly thân bà X sống tại căn nhà chung của vợ chồng tại ấp T, xã L, huyện N, tỉnh Cà Mau còn ông Đ thuê nhà trọ trên địa bàn huyện Năm Căn sống riêng. Thời gian ly thân, gia đình hai bên có hàn gắn hôn nhân nhưng không thành, nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà X yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn Đ.

Về nuôi con chung: Bà X xác định có 03 người con chung tên Trần Như Ý, sinh năm 1997 (nữ), Trần Khánh Duy, sinh ngày 29/11/2002 (nam) và Trần Hải Nghi, sinh ngày 14/4/ 2007 (nữ). Khi ly hôn bà X tự thỏa thuận với ông Đ về việc nuôi con và cấp dưỡng cho con nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ: Bà X tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai đề ngày 29 tháng 6 năm 2018 thể hiện lời trình bày của bị đơn ông Trần Văn Đ:

Về hôn nhân đúng như lời trình bày của bà X, mâu thuẫn giữa vợ chồng là có xảy ra. Ông Đ, bà X sống ly thân từ năm 2014 đến nay. Qua yêu cầu ly hôn của bà X thì ông Đ không đồng ý ly hôn vì vợ chồng còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được mong Tòa xem xét lại hôn nhân của ông và bà X.

Về nuôi con chung: Có 03 người con chung tên Trần Như Y, sinh năm 1997 (nữ), Trần Khánh D, sinh năm 2002 (nam) và Trần Hải N, sinh năm 2007 (nữ). Trường hợp ly hôn ông Đ tự thỏa thuận việc nuôi con và cấp dưỡng cho con nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ: Không có.

Tại phiên tòa:

Bà X vẫn giữ yêu cầu ly hôn với ông Đ; về nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản chung và công nợ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Đ vắng mặt nên không có ý kiến khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Về thủ tục tố tụng :Bà Châu Thị X yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn Đ, đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; ông Đ cư trú tại ấp T, xã L, huyện N nên theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.

Ông Trần Văn Đ có đơn xin được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án (các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử ), yêu cầu này của ông Đ là chính đáng nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt đối với ông Trần Văn Đ.

 [2] Về nội dung vụ án

Về hôn nhân: Bà Châu Thị X và ông Trần Văn Đ có thời gian tìm hiểu và chung sống như vợ chồng vào năm 1997, hôn nhân có tổ chức lễ cưới gã theo phong tục tập quán địa phương nhưng đến nay vẫn không lập thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Quá trình chung sống, giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, ông Đ thường xuyên đánh đập bà X, vợ chồng không tin tưởng tình cảm của nhau nên hôn nhân không đạt được hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2014 đến nay. Xét thấy tình cảm không còn nên bà X yêu cầu ly hôn với ông Đ, ông Đ xác định vợ chồng có xảy ra nhiều mâu thuẫn nhưng ông không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy việc bà X và ông Đ chung sống với nhau mà không đi đăng ký kết hôn đã vi phạm Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Do đó theo quy định tại khoản 1 Điều 14 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tuyên bố không công nhận vợ chồng giữa bà Châu Thị X và ông Trần Văn Đ.

Về nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản chung và công nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, căn cứ vào Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự“Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”, do đương sự không đặt ra yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch, bà X phải chịu 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, bà X được đối trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 147, 207, 220 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Châu Thị X và ông Trần Văn Đ.

2. Về nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản chung, công nợ: Hai đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

3. Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch bà

Châu Thị X phải chịu 300.000 đồng. Ngày 07 tháng 5 năm 2018, bà X đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015920 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn được đối trừ, không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Năm Căn - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về