Bản án 427/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 427/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 420/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 441/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: C; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1980. Tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số X đường P, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 3/12; Con ông: C2, sinh năm 1960 và con bà: H, sinh năm: 1957; Bị cáo có vợ là O, sinh năm 1982 (hiện cư trú tại Malaysia); Bị cáo có hai con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2002.

Tiền án: 01 tiền án. Ngày 02/5/2019, C bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 11/4/2020 chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/8/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

Ông T - Sinh năm 1962 - (vắng mặt).

Trú tại: Số X đường T, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

C là đối tượng nghiện ma túy, loại Methamphetamine. Vào khoảng 22 giờ ngày 16/8/2020, C gọi điện thoại hỏi mua của một người phụ nữ tên T (không rõ nhân thân lai lịch) một gói ma túy với số tiền 200.000 đồng thì T đồng ý bán và hẹn C đi đến khu vực hẻm X3 đường N, phường T, thành phố B để lấy ma túy bằng cách đặt tiền dưới một gốc cây rồi gọi điện thoại để T hướng dẫn lấy ma túy. Sau đó, C đi xe taxi (không nhớ hãng và biển số xe) đi đến điểm hẹn lấy ma túy. Sau khi mua được ma túy, C bỏ vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi thuê taxi đi đến khách sạn A, tại địa chỉ số X đường T, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để thuê phòng sử dụng ma túy. Khi C đi đến trước khu vực khách sạn thì bị Công an phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, kiểm tra phát hiện trong túi quần của C 01 gói nylon bên trong chứa chất rắn tinh thể màu trắng, C khai nhận đây là ma túy C vừa mua cất giấu để sử dụng, thì bị phát hiện bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 776/GĐMT-PC09 ngày 21/8/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn màu trắng dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,1999 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 418/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo C tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo C mức án từ 02 năm đến 03 năm tù.

Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 0,1555 gam ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S7, số SERI: R58HB5N3T1N, có gắn sim số 0826614747 là tài sản của bị cáo C, là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo C không bào chữa và tham gia tranh luận gì. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người chứng kiến không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo C tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án .

Như vậy đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 16 tháng 8 năm 2020, tại trước khu vực khách sạn A, địa chỉ số X đường T, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo C có hành vi tàng trữ 0,1999 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a,……;

b,……;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

...” Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, đúng người đúng tội.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, bị cáo C là công dân có đủ khả năng để nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo phải biết được rằng ma túy là chất gây nghiện thuộc sự quản lý độc quyền của nhà nước. Tuy nhiên, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật . Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quy định nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do vậy đối với bị cáo C cần phải xử lý nghiêm khắc buộc cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này trong tình hình xã hội hiện nay.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo C có 01 tiền án (chưa được xóa án tích) mà vẫn tái phạm, nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

[5] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,1555 gam ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong gói số 776/GĐMT-PC09 ngày 21/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S7, số SERI: R58HB5N3T1N, có gắn sim số 0826614747 là tài sản của bị cáo C, sử dụng vào việc phạm tội.

[6] Về án phí: Bị cáo C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/8/2020 .

[2]. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,1555 gam ma tuý loại Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong gói số 776/GĐMT-PC09 ngày 21/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy S7, số SERI: R58HB5N3T1N, có gắn sim số 0826614747 là tài sản của bị cáo C, sử dụng vào việc phạm tội.

(Vật chứng có đặc điểm và số lượng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/12/2020 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo C phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 427/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:427/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về