Bản án 424/2020/HS-PT ngày 23/06/2020 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 424/2020/HS-PT NGÀY 23/06/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 313/2020/TLPT-HS ngày 27 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Tiến C do có kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2020/HS-ST ngày 20 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

NGUYỄN TIẾN C (tên gọi khác: Nguyễn Hưng C), sinh ngày 10/8/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn T C, xã T P, huyện T T, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hưng P và bà Lê Thị L (đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2014 đến ngày 24/10/2014; Bị cáo bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh từ ngày 24/10/2014 đến ngày 13/7/2015. Bị cáo tại ngoại có mặt.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo có kháng cáo:

Ông Nguyễn Hưng P, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Thôn T C, xã T P, huyện T T, TP Hà Nội (Là bố đẻ bị cáo), có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo:

Lưu Thị Ngọc Lan - Luật sư Văn phòng luật sư Hà Lan và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.

* Bị hại có kháng cáo:

Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 19XX; nơi cư trú: Số nhà X Phố G, thị trấn T T, huyện T T, TP Hà Nội, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 31/5/2014, Đỗ Hữu Đ, sinh năm 19XX, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: xã Đ T, huyện Đ B, tỉnh Hòa Bình rủ Đỗ Văn D, sinh năm 19XX, trú tại: xã T P, huyện T T, TP. Hà Nội và Nguyễn Tiến C đi tìm các đôi nam nữ tâm sự ở chỗ tối, vắng vẻ để đe dọa chiếm đoạt tài sản. D và C đồng ý. Sau đó, D đã điều khiển xe mô tô BKS: 29M4-XXXX chở C và Đ đi, Đ mang theo một con dao nhọn (loại dao gọt hoa quả). Khi đi đến đường vành đai của thị trấn Thường Tín, đoạn rẽ ra Quốc lộ 1A thì D, Đ, C phát hiện anh Nguyễn Văn H đang đứng nói chuyện với bạn là chị Nguyễn Thị Thu H1 nên D đã dừng xe, đứng cách chỗ anh H đang đứng một đoạn rồi cùng C đứng cảnh giới. Đ đi đến chỗ anh H và chị H1 vừa quát “Có tiền cho xin một ít” vừa giơ dao nhọn lên dọa nên anh H sợ và nói “Bọn em ngồi hóng mát thôi” song Đ đã dí dao vào người anh H, anh H hoảng sợ nên đưa cho Đ 70.000 đồng (Bảy mươi nghìn đồng). Sau khi lấy được tiền của anh H, Đ đi ra chỗ C và D rồi cả ba cùng nhau ăn tiêu hết số tiền trên.

Quá trình điều tra, Nguyễn Tiến C đã xuất trình tài liệu thể hiện C có tiền sử mắc bệnh tâm thần nên ngày 15/7/2014, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thường Tín đã ra Quyết định trưng cầu giám định để giám định tâm thần đối với bị cáo C.

Tại bản kết luận giám định số 117/GĐPYTT ngày 25/9/2014, Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận: “ . . . Tại thời điểm giám định bệnh ở giai đoạn tiến triển, Nguyễn Tiến C mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.

Ngày 24/10/2014 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín đã ra Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với Nguyễn Tiến C. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Nguyễn Tiến C. Ngày 29/12/2014, do hết thời hạn điều tra nên Cơ quan điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, Quyết định tách vụ án hình sự đối với hành vi phạm tội của Nguyễn Tiến C.

Ngày 30/6/2015, Viện pháp y tâm thần Trung ương có kết luận gửi Cơ quan điều tra xác định tình trạng bệnh của Nguyễn Tiến C đã ổn định. Ngày 02/7/2015, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín ra Quyết định đình chỉ việc chữa bệnh bắt buộc đối với C, ngày 13/7/2015 Viện giám định pháp y Tâm thần Trung ương đã cho Nguyễn Tiến C xuất viện và bàn giao C cho Công an huyện Thường Tín. Cơ quan điều tra ra Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự và bị can đối với C. Tuy nhiên, trong thời gian này, Nguyễn Tiến C thường xuyên vào nằm điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm thần Trung ương nên ngày 11/6/2019, C được đưa đến Bệnh viện tâm thần Trung ương để giám định nội trú.

Tại biên bản giám định pháp y tâm thần số 286/BBGĐTC ngày 12/8/2019 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận: Tại thời điểm giám định, Nguyễn Tiến C có bệnh tâm thần phân liệt thể paranoid, bệnh ở giai đoạn thuyên giảm, theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F20.0. Tại thời điểm trên, Nguyễn Tiến C bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HS-ST ngày 20 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Thường Tín đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến C (Nguyễn Hưng C) phạm tội “Cướp tài sản”.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33; Điều 44 Bộ luật Hình sự 1999 (nay là điểm d khoản 2 Điều 168; điểm q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 49; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015), xử phạt Nguyễn Tiến C (Nguyễn Hưng C) 04 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam, từ ngày 05/6/2014 đến ngày 24/10/2014 và thời gian đã chấp hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh từ ngày 24/10/2014 đến ngày 13/7/2015.

- Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 02/3/2020 bị cáo Nguyễn Tiến C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 02/3/2020 người đại diện hợp pháp cho bị cáo ông Nguyễn Hưng P có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 04/3/2020 bị hại anh Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tiến C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo bị bệnh tâm thần, mẹ mất, bị cáo vẫn phải uống thuốc điều trị, gia đình bị cáo đã khắc phục hậu quả cho bị hại, bác ruột là người có huân chương kháng chiến, nhận thức pháp luật của bị cáo còn hạn chế.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ cho bị cáo với lý do bị cáo mắc bệnh tâm thần, mẹ mất sớm do cũng mắc bệnh tâm thần.

Người bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo bị bệnh tâm thần, bản thân bị đối tượng khác rủ đi theo, bị cáo đã đến khắc phục hậu quả cho bị hại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhân thân bị cáo, xem xét kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bị hại đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bị hại, sửa một phần bản án sơ thẩm. Cụ thể áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, i, q, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Tiến C từ 04 năm đến 04 năm 03 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tiến C trình bày bản bào chữa cho rằng mức án sơ thẩm tuyên đối với bị cáo là quá nghiêm khắc; bị cáo bị bệnh tâm thần trước khi phạm tội, gia đình có bà ngoại và mẹ bị cáo cũng mắc bệnh tâm thần; số tiền chiếm đoạt không lớn; chính quyền địa phương bảo lãnh cho bị cáo; sau phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã khắc phục hậu quả cho bị hại; gia đình bị cáo có công với cách mạng, bác được tặng huân chương. Luật sư đề nghị áp dụng điểm b, s, i, q khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cho bị cáo mức án thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tiến C, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bị hại đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Tiến C tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, người bị hại, những người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 31/5/2014, tại đường vành đai Thị Trấn Thường Tín thuộc địa phận xã Văn Bình, huyện Thường Tín, TP. Hà Nội, Nguyễn Tiến C cùng Đỗ Hữu Đ, Đỗ Văn D đã có hành vi dùng dao đe dọa và chiếm đoạt 70.000 đồng của anh Nguyễn Văn H nhằm mục đích ăn tiêu. Chính vì vậy hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Tiến C đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 (nay là điểm d Khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015) là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tiến C, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án; vai trò của bị cáo; thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; giá trị tài sản chiếm đoạt không lớn, bị cáo tham gia với vai trò thứ yếu, người bị hại có đơn đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo chưa có tiền án tiền sự và cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (nay là điểm i, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xử phạt 04 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Tiến C về tội “Cướp tài sản” là phù hợp. Tuy nhiên sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tích cực bồi thường toàn bộ khoản tiền chiếm đoạt trả bị hại; bản thân bị cáo nhất thời phạm tội; gia đình bị cáo có công với cách mạng, có bác ruột được tặng thưởng huân chương. Do vậy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bị hại, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo sớm được trở về với xã hội mà cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[5] Bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015,

1. Sửa một phần bản án sơ thẩm: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, h, n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33; Điều 44 Bộ luật Hình sự măm 1999 (nay là điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, i, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 49; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015), xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến C (Tên gọi khác: Nguyễn Hưng C) 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2014 đến ngày 24/10/2014 và thời gian bắt buộc chữa bệnh từ ngày 24/10/2014 đến ngày 13/7/2015) về tội “Cướp tài sản”.

2. Về án phí: bị cáo Nguyễn Tiến C không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 424/2020/HS-PT ngày 23/06/2020 về tội cướp tài sản

Số hiệu:424/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về