Bản án 15/2019/HS-PT ngày 23/01/2019 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 15/2019/HS-PT NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 267/2018/TLPT-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo Phạm Thị Thúy N và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Thúy N và đại diện hợp pháp cho bị cáo Dương Hoàn Q là ông Dương Hoàng T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 93/2018/HS-ST ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Thị Thúy N, (tên gọi khác V), sinh ngày 15/8/2000, tại tỉnh Trà Vinh; nơi ĐKHKTT: Ấp B, xã H, huyện C, Trà Vinh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn U và bà Phạm Thị T1; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình và chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: không. Tạm giam: 17/11/2017.

2. Dương Hoàn Q, sinh ngày 22/01/2001, tại tỉnh Trà Vinh; nơi ĐKHKTT: Ấp Ô, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Dương Hoàng T và bà Huỳnh Thị D; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình và chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Tạm giam: 17/11/2017.

3. Nguyễn Văn H, sinh ngày 15/8/2000, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ĐKHKTT: đường A, Phường C, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị P; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình và chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Tạm giam: 27/11/2017.

- Đại diện hợp pháp của bị cáo Dương Hoàn Q: Ông Dương Hoàng T, sinh năm 1981. ĐKHKTT: ấp Ô, xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh.

- Người bào chữa cho bị cáo N và Q: Ông Ngô Văn Đ – Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.

Ngày 03/10/2018, bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 03/10/2018, bị cáo Phạm Thị Thúy N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 10/10/2018, người đại diện hợp pháp của bị cáo Dương Hoàn Q là ông Dương Hoàng T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Dư H2, Phạm Thị Anh T2, bị hại và nguyên đơn dân sự không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập. (Bị cáo N, Q, ông T và Luật sư có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị Thúy N cùng Dương Hoàn Q, Nguyễn Dư H2, Nguyễn Văn H, Phạm Thị Anh T2 là những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định. Do muốn có tiền tiêu xài nên N, Q, H2, H và T2 đã bàn bạc với nhau thuê xe taxi đi để

cướp tài sản của lái xe taxi.

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 17/11/2017, N, Q, H2, H và T2 gọi xe taxi đi từ nhà nghỉ T ở đường L, phường B1, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh qua huyện N, tỉnh Đồng Nai với mục đích tìm chỗ vắng vẻ sẽ cướp tài sản của lái xe. Trên đường đi, N yêu cầu lái xe chở ghé qua xưởng dệt may khu M, phường 5,quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để vào phòng bạn của N tên Trâm lấy 02  cái ống tuýp sắt giấu trong áo khoác và lên xe đi tiếp. Khi đi đến gần cổng Công viên Đ thì lái xe taxi yêu cầu phải trả tiền trước nhưng tất cả không có tiền nên bị đuổi xuống xe. Sau đó, N gọi tiếp 01 chiếc taxi loại 07 chỗ của hãng taxi V để đi đến huyện N, xe taxi chở đến phà C thì xe bị hư nên lái xe đã gọi cho cả nhóm 01 chiếc xe taxi khác có biển số 51A-253.xx cũng của hãng taxi V do lái xe Tô Ngọc D1 (sinh năm 1978) ngụ tại ấp G, xã Phú Đông, huyện N, tỉnh Đồng Nai điều khiển đi từ phường C, quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh về Khu côngnghiệp N, huyện N, tỉnh  Đồng Nai.

Khi chuyển khách từ xe taxi bị hư sang xe anh D1, thì anh D1 đã thanh toán tiền cước của xe taxi bị hỏng trước đó với số tiền 300.000 đồng. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, khi anh D1 điều khiển xe đi đến Khu công nghiệp N thì H2, N yêu cầu chở về hướng khu nhà ở xã hội thuộc ấp 1, xã H1, huyện N và yêu cầu anh D1 cho xe dừng lại chỗ tối để đi vệ sinh với mục đích để có cơ hội cướp tài sản của anh D1. Lúc này, N lấy ống tuýp sắt trên xe đưa cho H2 và Q mỗi người 01 ống tuýp sắt, N và H nói chuyện với anh D1 nhằm cho anh D1 phân tâm, mất cảnh giác để H2 và Q thực hiện việc đánh anh D1. Trong lúc anh D1 đứng nói chuyện với N và H thì H2 đi từ phía sau dùng ống tuýp sắt đánh vào vai, bị đánh nên anh D1 bỏ chạy và truy hô “cướp, cướp”. Vì vậy H2, N, Q, H, T2 không lấy được tài sản của anh D1 (lúc đó trong người anh D1 có 610.000 đồng và một cái điện thoại di động hiệu Microsoft Mobile Model RM-1141).

Anh D1 chạy và truy hô nên H2 vứt lại tuýp sắt bỏ chạy còn Q, H, N, T2 lấy xe taxi của anh D1 chạy đi, nhưng thấy Q điều khiển xe không thành thạo nên H xuống xe chạy bộ. Q điều khiển xe taxi chạy ra hướng Quốc lộ 51, đến đường ĐT 769 thuộc ấp C, xã P, huyện N thì đâm vào lề đường bên trái làm cho xe taxi bị lật, Q và T2 không bị gì, còn N bị thương tích nên Q đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Nai cấp cứu.

Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an huyện Nhơn Trạch đã phối hợp các lực lượng truy bắt Q, N, T2, H, H2.

Ngày 20/11/2017, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nhơn Trạch tiến hành trưng cầu định giá tài sản chiếc xe ô tô Inova nhãn hiệu Toyota biển số 51A- 253.xx có giá trị còn lại là: 390.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã xác định Phạm Thị Thúy N, Dương Hoàn Q, Nguyễn Dư H2, Nguyễn Văn H, Phạm Thị Anh T2 bàn bạc thỏa thuận với nhau cướp tài sản của lái xe taxi. Xe taxi chỉ là phương tiện các bị can sử dụng để bỏ chạy khỏi hiện trường, tài sản của anh D1 gồm số tiền 610.000 đồng và một cái điện thoại di động hiệu Microsoft Mobile Model RM-1141 được định giá là 1.100.000 đồng.

Bản kết luận định giá tài sản số 109/KLĐG-HĐĐG ngày 29/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Nhơn Trạch đã định giá tiền công sửa chữa lại xe ô tô loại xe Inova nhãn hiệu Toyota biển số 51A-253.xx là 40.194.000 đồng.

Anh Tô Ngọc D1 yêu cầu các bị cáo phải trả 650.000 đồng tiền phí cước xe taxi; Công ty Cổ phần A Việt Nam (V C) yêu cầu các bị cáo phải bồi thường chi phí tiền công sửa xe ô tô là 67.930.000 đồng, tiền chi phí vận chuyển xe do xe hư hỏng không di chuyển được là 6.000.000 đồng, thiệt hại do xe bị hư hỏng không hoạt động được từ ngày 17/11/2017 đến ngày sửa chữa xuất xưởng là 53 ngày, với số tiền 45.000.000 đồng. Tổng cộng là 118.930.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 84/CT.VKS-NT ngày 30/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Phạm Thị Thúy N, Dương Hoàn Q, Nguyễn Dư H2, Nguyễn Văn H, Phạm Thị Anh T2 phạm vào tội “Cướp tài sản”, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại bản án sơ thẩm số: 93/2018/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Thị Thúy N, Dương Hoàn Q, Nguyễn Dư H2, Nguyễn Văn H, Phạm Thị Anh T2 phạm tội: “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53; Điều 69; Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999; Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Thúy N 06 (sáu) năm tù; Bị cáo Dương Hoàn Q 05 (năm) năm tù; thời hạn tù các bị cáo được tính từ ngày bị bắt tạm giam 17/11/2017. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn H 05 (năm) năm tù; thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 27/11/2017.

Ngoài ra án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Nguyễn Dư H2 07 năm 6 tháng tù; Bị cáo Phạm Thị Anh T2 06 năm 6 tháng tù. Tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp cho bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phạm Thị Thúy N, Dương Hoàn Q tội “Cướp tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng pháp luật. Mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo Phạm Thị Thúy N 06 (sáu) năm tù; bị cáo Dương Hoàn Q 05 (năm) năm tù, là tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm, và xem xét các tình tiết mới các bị cáo đã cung cấp tại tòa là đã bồi thường thiệt hại.

Trường hợp bị cáo Nguyễn Văn H có đơn rút kháng cáo. Đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo H.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo N và Q trình bày:

Về tội danh không tranh luận. Về nội dung án sơ thẩm chưa xem xét tình tiết các bị cáo khắc phục hậu quả cho anh Tô Ngọc D1. Các bị cáo chỉ có ý định lấy tài sản của anh D1, tình tiết lấy xe taxi nhằm mục đích tẩu thoát, không có ý định chiếm đoạt xe. Hiện nay gia đình các bị cáo đã tự nguyện khắc phục toàn bộ hậu quả. Đề nghị tòa xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Thúy N và đại diện hợp pháp của bị cáo Dương Hoàn Q là ông Dương Hoàng T, làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Ngày 08/11/2018, bị cáo Nguyễn Văn H đã có đơn rút toàn bộ kháng cáo. Căn cứ vào Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, ngày 14/11/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã thông báo việc rút kháng cáo của bị cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn H.

[2] Về nội dung vụ án:

Vào ngày 17/11/2017, các bị cáo Phạm Thị Thúy N, Dương Hoàn Q, Nguyễn Văn H, Nguyễn Dư H2, Phạm Thị Anh T2 đã dùng ống tuýp sắt đánh anh Tô Ngọc D1 là tài xế lái taxi của Công ty Cổ A Việt Nam (V C) để chiếm đoạt tài sản. Tại tòa các bị cáo N, Q khai nhận tội, đối chiếu lời khai các bị cáo H, H2, T2, lời khai người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có tại hồ sơ đều phù hợp. Xét án sơ thẩm xử bị cáo Phạm Thị Thúy N, Dương Hoàn Q về tội “Cướp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Vụ án xảy ra trước ngày 01/01/2018, căn cứ hướng dẫn của Nghị quyết số 41 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, nên xét xử các bị cáo theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, tội phạm đã hoàn thành, tài sản chiếm đoạt chưa lấy được là ngoài ý muốn của các bị cáo. Đối với các bị cáo cần có mức án nghiêm tương xứng với hành vi của từng bị cáo, để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Bị cáo Phạm Thị Thúy N là người khởi xướng và chuẩn bị phương tiện phạm tội, nên mức án phải cao hơn bị cáo Dương Hoàn Q là người tham gia tích cực. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá toàn bộ vụ án cùng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo Phạm Thị Thúy N 06 (sáu) năm tù; bị cáo Dương Hoàn Q 05 (năm) năm tù là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Thị Thúy N và ông Dương Hoàng T trình bày đã tự nguyện bồi thường đủ cho Công ty Cổ phần A Việt Nam số tiền mà bản án sơ thẩm đã tuyên buộc, nên ngày 05/01/2019 Công ty có văn bản xác nhận số tiền trên đã được bồi thường, đồng thời xin giảm nhẹ án cho các bị cáo. Xét lúc phạm tội các bị cáo chưa thành niên, gia đình các bị cáo đã tự nguyện đã khắc phục hậu quả, ông nội các bị cáo đều là người có công với đất nước. Xét các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có tình tiết giảm nhẹ mới thuộc điểm b khoản 1 điều 46 BLHS năm 1999, nên giảm 01 phần mức án cho các bị cáo.

[3] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và lời bào chữa của luật sư tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. [4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Phạm Thị Thúy N và đại diện hợp pháp của bị cáo Dương Hoàn Q là ông Dương Hoàng T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn H.

2. Chấp nhận kháng cáo của bị Phạm Thị Thúy N và của ông Dương Hoàng T; Sửa bản án sơ thẩm.

3. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 53; Điều 69; Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999; Xử phạt các bị cáo:

Phạm Thị Thúy N 05 (năm) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 17/11/2017.

Dương Hoàn Q 04 (bốn) năm 02 (hai) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giam 17/11/2017

3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Phạm Thị Thúy N và ông Dương Hoàng T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

429
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HS-PT ngày 23/01/2019 về tội cướp tài sản

Số hiệu:15/2019/HS-PT 
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về