Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Qùy châu, tỉnh Nghệ an xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021 về việc Tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử (Lần thứ hai) số 34/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị Hồng Ng, sinh năm 1995.

Trú tại: Bản P, xã CNg, huyện QC, tỉnh NA.

Tạm trú: Bản Kh, xã CH, huyện QC, tỉnh NA. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Vi Văn A, sinh năm 1980. Trú tại: Bản P, xã CNg, huyện QC, tỉnh NA. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 12/01/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hà Thị Hồng Ng trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Năm 2011, chị Ng bị anh Vi Văn A bắt về làm vợ chứ không yêu đương, tìm hiểu gì. Tuy nhiên, bản thân chị cũng chấp nhận và sau đó hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương. Đến ngày 30/7/2014 hai người mới đến Ủy ban nhân dân xã CNg, huyện QC, tỉnh NA để đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi lấy nhau, vợ chồng sống chung với bố, mẹ đẻ của anh Vi Văn A là ông Vi Thanh V và bà Lữ Thị Q tại bản LM (nay là bản P), xã CNg, huyện QC, tỉnh NA. Mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu xảy ra từ khi bố chồng là ông Vi Thanh V mất. Nguyên nhân là do anh Vi Văn A và mẹ đẻ là bà Lữ Thị Q thường xuyên có hành vi đánh đập chị. Do không chịu đựng được nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ của mình từ đầu năm 2017 cho đến nay và giữa hai người ly thân từ đó, không còn quan tâm, chăm sóc gì đến nhau. Xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị Ng yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Vi Văn A. Ngoài ra chị Ng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và không có tài liệu, chứng cứ gì giao nộp thêm cho Toà án, không thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện - Về con cái: Vợ chồng không có con chung và không nhận nuôi con nuôi, không ai có con riêng.

- Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Chị Hà Thị Hồng Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình thu thập chúng cứ để giải quyết vụ án, bị đơn anh Vi Văn A trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Trước khi lấy nhau thì giữa anh và chị Hà Thị Hồng Ng có thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm. Bản thân anh không hiểu vì lý do gì mà chị Ng bỏ nhà ra đi vào năm 2014. Anh có đến nhà bố, mẹ đẻ của chị Ng để đón chị Ng về nhưng chỉ được một thời gian ngắn chị Ng lại tiếp tục bỏ nhà ra đi từ đó cho đến nay không về. Anh đã nhiều lần hỏi thăm về thông tin của chị Ng để đón về nhưng chị Ng vẫn kiên quyết không về. Hiện tại xác định bản thân vẫn còn tình cảm với vợ nên anh Vi Văn A không đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của chị Ng và đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng quay lại đoàn tụ, chung sống với nhau.

- Về con cái: Vợ chồng không có con chung và không nhận nuôi con nuôi, bản thân không có con riêng.

- Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Anh Vi Văn A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cố tình vắng mặt và che dấu địa chỉ.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51; 56 Luật Hôn nhân và gia đình, điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Hà Thị Hồng Ng. Cho chị Hà Thị Hồng Ng được ly hôn anh Vi Văn A.

- Về quan hệ con cái và tài sản: Đề nghị không xem xét.

- Về án phí: Buộc chị Hà Thị Hồng Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở xem xét đầy đủ lời khai của nguyên đơn, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại xã CNg, huyện QC, tỉnh NA. Do đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện QC theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự có mặt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Nguyên đơn chị Hà Thị Hồng Ng trong quá trình giải quyết vụ án chấp hành đúng và đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt phù hợp quy định và được chấp nhận. Bị đơn anh Vi Văn A khi được triệu tập để lấy lời khai đã có mặt. Tuy nhiên, qúa trình Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự quay lại đoàn tụ với nhau thì anh Vi Văn A không có mặt, Tòa án đã nhiều lần triệu tập nhưng anh Vi Văn A vẫn cố tình vắng mặt, đi khỏi địa phương và không thông báo cho chị Ng biết địa chỉ nơi anh Vi Văn A đang tạm trú và làm việc, không khai báo tạm vắng với chính quyền địa phương, không thông báo cho Toà án biết. Căn cứ vào Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTPTANDTC ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn một số quy định thi hành khoản 1 và khoản 3 điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự thì nguyên đơn là chị Hà Thị Hồng Ng đã cung cấp đúng địa chỉ của bị đơn, bị đơn anh Vi Văn A không có mặt tại địa phương nhưng không thông báo cho nguyên đơn và Tòa án biết nơi tạm trú của mình, anh Vi Văn A cố tình che dấu địa chỉ. Căn cứ khoản 2 điều 227 và khoản 3 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Hồng Ng và anh Vi Văn A kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định, quan hệ hôn nhân giữa chị Ng và anh A là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Vi Văn A thường xuyên có hành vi đánh đập chị Ng. Do mâu thuẫn vợ chồng không giải quyết được nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ của mình từ đầu năm 2017 và vợ chồng cũng đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Chị Ng xác định vợ chồng không còn tình cảm với nhau và từ khi sống ly thân cho đến nay giữa hai người không còn quan tâm, chăm sóc gì đến nhau. Anh Vi Văn A không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ng và đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng quay lại đoàn tụ với nhau. Tuy nhiên, qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập các đương sự đến để hòa giải nhưng anh Vi Văn A cố tình vắng mặt, không có thái độ hợp tác để giải quyết vụ án. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng thực sự đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy chấp nhận yêu cầu của chị Hà Thị Hồng Ng. Cho chị Ng được ly hôn anh Vi Văn A.

- Về quan hệ con cái: Chị Hà Thị Hồng Ng và anh Vi Văn A không có con chung, không nhận nuôi con nuôi, không ai có con riêng. Do đó, không xem xét.

- Về quan hệ tài sản: Chị Hà Thị Hồng Ng và anh Vi Văn A không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Hà Thị Hồng Ng phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 51; 56 luật Hôn nhân và gia đình. Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

- Về quan hệ tình cảm: Chấp nhận yêu cầu của chị Hà Thị Hồng Ng. Cho chị Hà Thị Hồng Ng được ly hôn anh Vi Văn A.

- Về án phí: Chị Hà Thị Hồng Ng phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị Ng đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện QC, tỉnh NA theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0001740 ngày 12 tháng 01 năm 2021. Chị Hà Thị Hồng Ng đã nộp đủ án phí DSST.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt nguyên đơn và bị đơn. Tất cả đều được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh NA trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 19/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về