Bản án 42/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2020/HSST ngày 02 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/QĐXXST-HS ngày 16/4/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân H; giới tính: Nam; sinh ngày 05/02/1994; nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Thái Bình; trình độ học vấn (văn hóa): 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1959 và con bà Phạm Thị S, sinh năm 1962; gia đình bị cáo có 4 anh chị em, bị cáo là con thứ 4; chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 134 ngày 04/6/2018 của Công an huyện T, tỉnh Thái Bình, xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đã nộp phạt ngày 18/6/2018. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/12/2019 đến ngày 13/12/2019 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T, tỉnh Thái Bình, bị cáo bị trích xuất có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1. Bà Bùi Thị H, sinh năm 1955 (vắng mặt) 

Trú tại: Tổ 03, phường B, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

2. Bà Phạm Thị C, sinh năm 1957 (vắng mặt)

Trú tại: Tổ 18, phường L, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 07/12/2019, bị cáo Nguyễn Xuân H đi xe buýt từ xã D, huyện T, tỉnh Thái Bình lên khu vực bến xe khách thành phố T để mua ma túy sử dụng. Sau đó H xuống xe đi xe ôm đến khu vực chợ đầu mối, đường L, tổ 37, phường D, thành phố T, tỉnh Thái Bình để tìm mua ma túy đá. Tại đây, bị cáo H gặp một người nam giới khoảng 27 tuổi, bị cáo không biết tên và địa chỉ, bị cáo H hỏi người nam giới “Anh có ma túy đá không để cho em 300.000 đồng”, người nam giới trả lời “Có, đưa tiền đây”, bị cáo H đưa cho người nam giới 300.000 đồng (03 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng), người nam giới nhận tiền và đưa lại cho bị cáo 01 túi ma túy, bị cáo cầm túi ma túy ở lòng bàn tay trái rồi đi bộ về khu vực bến xe khách thành phố T để bắt xe về nhà. Đến khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, khi bị cáo H đi đến khu vực tổ 20, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác của Công an thành phố T yêu cầu kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. Khi kiểm tra, trước sự chứng kiến của bà Bùi Thị H và bà Phạm Thị C , bị cáo H đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa chất dạng tinh thể trong suốt là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2384 gam. Sau đó tổ công tác đưa bị cáo H và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường P, thành phố T để làm việc. Tại đây, kiểm tra người bị cáo H không phát hiện thu giữ gì, tổ công tác Công an thành phố T đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và quản lý, niêm phong số vật chứng thu trên.

Tại bản kết luận giám định số 443/KLGĐ-PC09, ngày 09/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Vật chứng gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2384 gam (không phẩy hait nghìn ba trăm tám mươi bốn gam).

Cáo trạng số 36/CT-VKSTPTB ngày 02/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố, không tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Xuân H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng minh bởi các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 19 giờ 50 phút ngày 07/12/2019 tại trụ sở Công an phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình (bút lục số 03 đến 04); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (bút lục số 25); bản Kết luận giám định số 443/KLGĐ – PC09 ngày 09/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 28); lời khai của những người chứng kiến là bà Bùi Thị H và bà Phạm Thị C (bút lục số 45 đến 56). Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 07/12/2019, tại khu vực đường B, tổ 20, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Xuân H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2384 gam Methamphetamine (ma túy đá) để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an thành phố T, tỉnh Thái Bình bắt quả tang. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều 249 Bộ luật Hình sự tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:a) …c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma tuý đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, ma tuý còn gây ra biết bao hiểm hoạ nghiêm trọng khác cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm, là tác nhân lan truyền đại dịch thế kỷ HIV- AIDS, là yếu tố phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình có người nghiện…Tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy, Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội. Do bị cáo có việc làm và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Nguyễn Xuân H có nhân thân xấu thể hiện bằng việc ngày 04/6/2018 bị cáo đã bị Công an huyện T, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Lạm dựng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo H khai mua của một người nam giới khoảng 27 tuổi không biết tên và địa chỉ tại khu vực chợ đầu mối, đường L, tổ 37, phường D, thành phố T, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ vào điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38; điều 50; điều 47 Bộ luật Hình sự; điều 106; điều 135; điều 136; điều 331; điều 332 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 21; điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định niêm phong trong 01 phong bì ghi số 443/KLGĐ-PC09.

(Vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 03/3/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bị cáo Nguyễn Xuân H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/4/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về