Bản án 42/2020/HS-PT ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 42/2020/HS-PT NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số32/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 4 năm 2020 về tội “Trộm cắp tài sản” đối với bị cáo Nguyễn Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 04/2020/HSST ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đắk Nông.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T, sinh năm 1976 tại tỉnh Hải Dương; trú tại: Thôn A, xã S, huyện T, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 06/12; con ông Nguyễn Văn L và bà Phạm Thị N; có vợ là Phạm Thị D và 02 con (sinh năm 2001 và 2004); bị tạm giữ từ ngày 02/09/2019 đến ngày 11/9/2019; tại ngoại – có mặt.

- Người bị hại: Công ty cổ phần N; Địa chỉ: Tổ dân phố A, đường Đ, phường T, thành phố G, tỉnh Đắk Nông.

Đi diện theo pháp luật: Bà Phan Thị Mai T – Chức vụ: Giám đốc; địa chỉ: Tổ dân phố B, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.

Đi diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn L; địa chỉ: Tổ dân phố C, phường T, thành phố G, tỉnh Đắk Nông (văn bản ủy quyền ngày 03/9/2019) – vắng mặt.

- Những người làm chứng:

- Ông Phạm Văn G, sinh năm 1972 Địa chỉ: Thôn T, xã R, huyện S, tỉnh Đắk Nông.

- Ông Bùi Văn X, sinh năm 1967 - Anh Bùi Văn H, sinh năm 2001

- Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1986

Cùng địa chỉ: Thôn D, xã S, huyện T, tỉnh Đắk Nông. Những người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyn Văn T là người làm thuê cho công trình xây dựng Dự án bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống Thực dân Pháp của đồng bào M’Nông tại thôn D, xã S, huyện T, tỉnh Đắk Nông do Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch làm chủ đầu tư, công ty cổ phần N trúng thầu thực hiện. Ngày 01/9/2019, công trình tạm ngừng thi công để nghỉ lễ Quốc Khánh.

Khoảng 11 giờ cùng ngày, trong lúc ngồi uống rượu với Đặng Văn L và Đặng Văn D tại nhà của mình, T hỏi L có mua thép trên công trình di tích không, sau đó T cùng L và D đi trên 02 xe mô tô lên công trình xem thép. Do T và L không thống nhất được giá cả mua bán thép nên T bảo L cứ đem thép đi bán rồi về báo lại cho T sau thì L đồng ý. T chỉ vào đống thép phi 16, còn nguyên cây dài 11,7m rồi nói với L lấy đống này. Sau đó T về nhà mình.

Khoảng 14 giờ cùng ngày, Đặng Văn L gọi điện thoại nhờ Phạm Văn G thuê xe máy kéo. Sau đó, G cùng Bùi Văn H điều khiển xe máy kéo biển số 48MK1-010.46 tới công trình. Khi tới nơi, L, G, H bốc thép của công trình xếp lên xe, H điều khiển xe đi theo sự hướng dẫn của L để đi bán thép, nhưng không ai mua. Lúc này, L, G hướng dẫn cho H chạy xe máy kéo về gần nhà G để đổ thép. Sau khi đổ xong, L mượn G 200.000 đồng trả tiền thuê xe chở thép cho H, rồi tất cả đi về nhà.

Khoảng 16 giờ cùng ngày, T phát hiện bị mất thép nên gọi điện thoại cho Nguyễn Đức T cũng là người làm thuê cho công trình. T gọi điện thoại báo cho anh Nguyễn Văn L là quản lý công trình. Khoảng 17 giờ, T gọi điện thoại hỏi L thì biết L đã lấy thép. T thông báo về việc Cơ quan Cảnh sát điều tra đang truy tìm thép, yêu cầu L đến dặn những người chở thép không được khai ra việc lấy trộm. Sau khi nghe điện thoại của T, L đến gặp ông Bùi Văn X và anh Bùi Văn H dặn không được khai việc chở thép. Sáng ngày 02/9/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã phát hiện và tiến hành thu giữ số thép nói trên.

Ti bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐGTS ngày 10/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: 44 cây thép tròn gai phi 16 nhãn hiệu Pomina, dài 11,7 m có giá trị là 11.792.000 đồng.

Bn án hình sự sơ thẩm số 04/2020/HSST ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) tháng tù.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Đặng Văn L (đồng phạm trong vụ án), vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.

Ngày 04/3/2020, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ti phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận Tòa án nhân dân huyện T xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan. Bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo, chỉ xin hưởng án treo, không xin giảm nhẹ hình phạt.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Vào khoảng 14 giờ ngày 01/9/2019, tại công trình xây dựng dự án bảo tồn phát huy giá trị di tích lịch sử tại thôn D, xã S, huyện T, tỉnh Đắk Nông, bị cáo Nguyễn Văn T đã lợi dụng việc công trình tạm ngừng thi công để nghỉ lễ, đã có hành vi cùng với Đặng Văn L trộm cắp 44 cây thép có giá trị 11.792.000 đồng.

Do vậy, Tòa án nhân dân huyện T xử phạt bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, HĐXX xét thấy:

Bị cáoNguyễn Văn T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản trộm cắp đã thu hồi trả lại cho người bị hại; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Ngoải ra, bị cáo mắc bệnh rối loạn tâm thần, bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Xét tính chất, mức độ hành vi, hậu quả phạm tội bị cáo gây ra là ít nghiêm trọng. Bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;trong thời gian tại ngoại không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật. Xét thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, khôngcần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội. Vì vậy, HĐXX có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.

[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự,

1.Chp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện T, tỉnh Đắk Nông giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

2.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án..

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HS-PT ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về