Bản án 63/2018/HS-PT ngày 31/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 63/2018/HS-PT NGÀY 31/01/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Bản án 63/2018/HS-PT ngày 31/01/2018 về tội trộm cắp tài sản 45/2017/HS-ST ngày 20/02/2017 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội

Ngày 31 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 787/2017/TLPT-HS ngày 20 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Phạm Chí T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2017/HS-ST ngày 20/02/2017 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Chí T, sinh năm 1985; ĐKHKTT: huyện V, tỉnh Hưng Yên; trú tại: Không có nơi ở cố định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Phạm Tiến T1 và bà Kim Thị M; có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1992 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2012; tiền án: Ngày 21/9/2009, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 04 (bốn) tháng 16 ngày tù về tội Đánh bạc (đã được xóa án); ngày 21/10/2010, Tòa án nhân dân quận H xử phạt 12 tháng tù về tội Đánh bạc (thi hành án xong ngày 25/5/2011); ngày 12/7/2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 24 (hai bốn) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2013, ra trại ngày 25/3/2015). Chưa được xóa án theo quy định của pháp luật, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm; bị bắt tạm giam từ ngày 03/10/2016 đến nay.

Người bị hại không có kháng cáo: Anh Hong Seong Y (là khách du lịch), sinh năm 1984; trú tại: 101-601, 39 S, 30 D, Gu, Seoul; quốc tịch Hàn Quốc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/10/2016, anh Hong Seong Y (sinh năm 1984, quốc tịch: Hàn Quốc, Hộ chiếu số: M) đang đi bộ một mình trên vỉa hè đoạn trước cửa nhà số 21 phố H, phường T, quận H, Hà Nội trước ngực có đeo một chiếc túi xách màu đen, bên ngăn ngoài có để 01 chiếc điện thoại di động LG V10 màu đen thì Phạm Chí T đi đến mời anh Hong Seong Y mua tranh, ảnh. Do không có nhu cầu mua tranh nên anh Hong Seong Y từ chối, thì bị T dùng tay vỗ vào túi xách rồi bỏ đi. Do nghi ngờ bị mất tài sản, anh Hong Seong Y kiểm tra và phát hiện bị mất chiếc điện thoại LG V10. Anh Hong Seong Y đuổi theo T đến trước cửa nhà số 23 H thì đuổi kịp T, đồng thời nhìn thấy chiếc điện thoại của anh được giấu trong chiếc Bản đồ Việt Nam ở trên tay T. Anh Hong Seong Y giằng co với T, hô “Police” và lấy được chiếc điện thoại LG V10 màu đen từ tay T. Nghe tiếng hô, anh Nguyễn Đức Q (sinh năm 1982, trú tại: số 58 ngõ P, phường B, H, Hà Nội) đứng gần đó thấy anh Hong Seong Y đang giằng co lấy lại chiếc điện thoại di động từ tay T nên đã cùng một số người dân bắt giữ và đưa T đến Công an phường T để giải quyết, lập biên bản phạm pháp quả tang. Thu giữ: 01 chiếc điện thoại LG V10 màu đen, có số Imei: 359105-06-486172-1 do anh Y giao nộp; 20 (hai mươi) bức ảnh kích thước (10x15) cm được đựng trong túi ni lon, 01 tấm bản đồ Việt Nam kích thước (15x25)cm, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 có gắn sim A, có Imei: 358347-05-3065228-3 do Phạm Chí T nộp.

Ngày 03/10/2016,  anh Hong Seong Y có đơn trình báo và có lời khai như sau: Anh là người Hàn Quốc đến Việt Nam du lịch ngày 30/9/2016. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/10/2016, khi anh đang đi dạo trên phố H thì có 01 người chạy qua và móc túi của anh lấy đi chiếc điện thoại LG V10. Anh chạy theo bắt được anh ta (tức T) và lấy lại chiếc điện thoại của mình. Chiếc điện thoại LG V10 có trị giá 600 đô la mỹ, anh đã giao nộp cho Cơ quan điều tra để phục vụ điều tra.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 242/KL-HĐĐG ngày 05/10/2016,  Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận H, Hà Nội xác định: Chiếc điện thoại nhãn hiệu LG V10, màu đen đã qua sử dụng, số Imei: 359105-06-486172-1 có giá trị là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2017/HSST ngày 20/02/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phạm Chí T phạm tội “Trộm cắp tài sản’’.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Phạm Chí T 18 (mười tám) tháng tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 03/10/2016.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và thông báo quyền kháng cáo của bị cáo, người bị hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/3/2017, bị cáo Phạm Chí T có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Phạm Chí T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét hoàn cảnh gia đình khó khăn để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; nhân thân của bị cáo; các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo xác định Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử bị cáo Phạm Chí T 18 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản’’ là có căn cứ, đúng pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Chí T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản hiện trường và các tài liệu khác do cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/10/2016, bị cáo Phạm Chí T phát hiện thấy anh Hong Seong Y đi bộ một mình trước cửa nhà số 21 phố H, Hà Nội có đeo 01 chiếc túi, ở ngăn ngoài có để 01 chiếc điện thoại di động. Bị cáo Phạm Chí T dùng thủ đoạn giả vờ mời, ép anh Hong Seong Y mua tranh, ảnh rồi áp sát móc lấy chiếc điện thoại nhãn hiệu LG V10 màu đen thì bị anh Hong Seong Y phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày 03/10/2016, Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc điện thoại nêu trên cho anh Hong Seong Y.

Xét tài sản bị cáo Phạm Chí T chiếm đoạt có giá trị không lớn (trị giá 2.500.000 đồng) và tài sản bị cáo Phạm Chí T chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, tuy nhiên  bị cáo Phạm Chí T bị kết án, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo Phạm Chí T thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Chí T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đối với du khách nước ngoài. Bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị kết án về hành vi đánh bạc và chiếm đoạt, nhưng không chịu tu dưỡng, cải tạo mà vẫn tiếp tục phạm tội thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Quá trình điều tra, Phạm Chí T không thành khẩn khai báo. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tù nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét động cơ phạm tội, tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo cụ thể là giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là không lớn và đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, bị cáo thành khẩn khai báo tại phiên tòa, tỏ ra ăn năn hối cải để xử phạt bị cáo Phạm Chí T 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản’’ được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay không có tình tiết mới làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt theo đơn kháng cáo của bị cáo. Do đó, cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Chí T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Phạm Chí T 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 03/10/2016.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Chí T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2018/HS-PT ngày 31/01/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về