Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 156/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXX-ST ngày 04 tháng 8 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 337/2020/QĐHPT-ST ngày 26 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Y, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ 02, ấp, xã L, huyện T, tỉnh An Giang, (có mặt):

2. Bị đơn: Ông Trần T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ 14, khóm A, thị trấn B, huyện T, tỉnh An Giang, (vắng mặt).

 NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Nguyên đơn bà Nguyễn Y trình bày: Bà Y và ông T chung sống với nhau từ năm 2009 có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh An Giang vào ngày 05/8/2009. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, về sau thì xảy ra mâu thuẫn do ông Tấn không lo làm ăn để cùng vợ xây dựng gia đình và chăm sóc các con. Mặc cho bà Y đã nhiều lần khuyên chồng nên tập trung vào công việc cố gắng kiếm tiền lo cho các con, nhưng ông T không thay đổi. Từ đó, dẫn đến hôn nhân rạn nứt nên bà Y và ông T đã ly thân từ năm 2016 đến nay, bà Y yêu cầu ly hôn với ông T; về con chung: Có 02 con chung tên Trần N, sinh ngày 29/8/2009 và Trần H, sinh ngày 23/9/2015. Tùy các con quyết định muốn chung sống với cha hay mẹ là do sự lựa chọn của hai con; về tài sản chung, nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Trần T: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, 02 lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo trình tự tố tụng nhưng ông T không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, ông T đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn giữa bà Y và ông T.

* Ý kiến của cháu Trần N có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ là bà Nguyễn Y.

Tại phiên tòa, bà Y vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông T.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về thủ tục: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Y đối với ông T. Về con chung: Đối với Trần N, sinh ngày 29/8/2009 có nguyện vọng sống với bà Y và cháu Trần H, sinh ngày 23/9/2015 chưa đủ 7 tuổi nên giao 02 cháu cho bà Y tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, ông T không cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết. Về án phí: Bà Y phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông T có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại tổ 14, khóm A, thị trấn B, huyện T, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Y và ông T chung sống với nhau vào năm 2009 trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh An Giang, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 96, ngày 05 tháng 8 năm 2009 được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, 56 và 57 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

Tại phiên tòa bà Y xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, bà Y yêu cầu được ly hôn với ông T. Sau khi thụ lý Tòa án mở phiên hòa giải để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng giữa bà Y và ông T, nhưng ông T không tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông T.

Tại biên bản xác minh ngày 30 tháng 7 năm 2020 được đại diện Văn phòng ấp A, xã L, huyện T, tỉnh An Giang cung cấp thông tin xác nhận ông T có đi làm ăn xa nhưng vẫn thường xuyên về nhà, hộ khẩu hiện nay của ông T vẫn còn đăng ký chủ hộ tại địa chỉ nêu trên. Qua phần trình bày của bà Y được biết ông T không chăm lo làm ăn, thường xuyên gây nợ. Qua những bất đồng trong cuộc sống hôn nhân ông T không vì gia đình vợ con, nên bà Y không thể tiếp tục hàn gắn cuộc hôn nhân với ông T. Điều đó cho thấy tình trạng vợ chồng là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà Y yêu cầu ly hôn với ông T là có căn cứ nên được chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Có 02 con chung tên Trần N, sinh ngày 29/8/2009 và Trần H, sinh ngày 23/9/2015. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu N và H cho bà Y tiếp tục nuôi dưỡng và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu N. Riêng cháu H sinh năm 2015 nên giao cho bà Y tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông T không có nghĩa vụ cấp dưỡng cấp dưỡng nuôi con do bà Y không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Theo bà Y khai không có nhưng do chưa có ý kiến của ông T về vấn đề này, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Khi đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, bà Y chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: TU/2019/0000190 ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Điều 51, 56 và 57 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Y.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Y được ly hôn với ông Trần T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 96, ngày 05 tháng 8 năm 2009 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

[2] Về con chung: Bà Nguyễn Y được tiếp tục nuôi 02 cháu Trần N, sinh ngày 29/8/2009 và Trần H, sinh ngày 23/9/2015, ông Trần T không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Y không yêu cầu. Bà Y cùng các thành viên gia đình không được cản trở việc ông T thực hiện quyền thăm nom, giáo dục, chăm sóc con. Trên cơ sở lợi ích của con theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Các bên không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Y phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: TU/2019/0000190 ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.

[5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Y có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

[6] Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:42/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về