Bản án 42/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 42/2019/HSST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 36/2019/HSST ngày 18/3/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/QĐXX-ST ngày 18/3/2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M - Sinh năm 1979; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Số 15B, ngõ H, phường HT, quận HK, Hà Nội; Chỗ ở: Số 4, ngõ 384 đường N, phường V, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Văn A( đã chết); Họ tên mẹ: Đoàn Thị T; Có vợ (chưa đăng ký kết hôn) là Nguyễn Hương L- Sinh 1981; Có 01 con sinh năm 2018;

- Tiền án:

1. Bản án hình sự sơ thẩm số 439/HSST ngày 02/12/1999 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 48 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích( Đã chấp hành xong bản án).

2. Bản án hình sự sơ thẩm số 123/HSST ngày 27/5/2004 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy( đã chấp hành xong bản án).

3. Bản án hình sự sơ thẩm số 222/HSST ngày 27/7/2009 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 05 năm tù về tội Chống người thi hành công vụ( Đã chấp hành xong bản án).

- Tiền sự: 02 tiền sự năm 1998 và 1999.

Bắt quả tang ngày 15/11/2018; Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00’ ngày 15/11/2018, Nguyễn Văn M được một nam thanh niên không quen biết tại khu vực Hồ Tây, đường Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội cho 02 túi nilon ma túy “đá”. M mang số ma túy về nhà, dùng băng dính đen, dính 02 túi ma túy vào chiếc chìa khóa cửa cuốn màu đen rồi treo ở chùm chìa khóa xe máy của M, mục đích để sử dụng ma túy. Khoảng 19 giờ cùng ngày, M điều khiển xe máy Honda Wave, biển kiểm soát 29H1-717.46, khi đi đến khu vực cổng Time City số 458 Minh Khai, Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị tổ công tác 141 Công an thành phố Hà Nội dừng xe kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, tổ công tác đã phát hiện số ma túy cất giấu trong chiếc chìa khóa cửa cuốn. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của M: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Asus màu trắng-đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, 01 xe máy Honda Wave, biển kiểm soát 29H1-717.46, 01 chìa khóa cửa cuốn và 1.306.000đ.

Tại Bản kết luận giám định số 8774/KLGĐ-PC54 ngày 22/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,270g.

Đối với người đàn ông cho M ma túy vào ngày 15/11/2018, M khai không biết nhân thân, lai lịch của thanh niên này, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave, biển kiểm soát 29H1-717.46: M khai mua của một người không quen biết để sử dụng. Qua điều tra xác định được chiếc xe máy là tang vật của vụ án trộm cắp tài sản ngày 11/7/2017 tại khu vực nhà I 17, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội. Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách tài liệu về chiếc xe máy trên, chuyển đến cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Đống Đa điều tra theo thẩm quyền.

Đối với chiếc biển kiểm soát 29H1-717.46: quá trình điều tra xác định biển kiểm soát là của chiếc xe máy Honda Vision, chủ sở hữu là chị Nguyễn Cẩm A. Chị Cẩm A xác nhận: chị mua xe máy Honda Vision, biển kiểm soát 29H1-717.46 từ năm 2016. Đến nay chị vẫn đang sử dụng chiếc xe máy này.

Đối với 01 chìa khóa cửa cuốn màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Asus màu trắng-đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen và số tiền 1.306.000đ, M khai là tài sản cá nhân, không liên quan đến tội phạm.

Tại Bản cáo trạng số 51/CT/VKS-HBT ngày 15/3/2019, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Nguyễn Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng căn cứ lời khai thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa, cũng như trong quá trình điều tra, xác định bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Văn M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Xử phạt: Nguyễn Văn M từ 20 đến 24 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo;

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,270 gam ma túy loại Methamphetamine, 01 chìa khóa cửa cuốn, 01 chiếc biển kiểm soát 29H1-71746.

Trả lại Nguyễn Văn M số tiền 1.306.000đ, 02 điện thoại di động.

Bị cáo Nguyễn Văn M công nhận nội dung bản cáo trạng, lời luận tội của Viện kiểm sát là đúng hành vi bị cáo thực hiện. Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét hành vi của bị cáo: Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; Căn cứ Bản kết luận giám định số 8774/KLGĐ-PC54 ngày 22/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội; Căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang. Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: Ngày 22/8/2018, bị cáo Nguyễn Văn M đã có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,270gam ma túy loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Khi bị cáo đi đến khu vực trước khu vực cổng Time City số 458 Minh Khai, Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị tổ công tác 141 Công an thành phố Hà Nội dừng xe kiểm tra hành chính, bắt quả tang, thu giữ ma túy.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác. Nhà nước đang dùng mọi biên pháp để ngăn chặn tệ nạn ma túy. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm, nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi. Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn M là đối tượng nghiện ma túy, nhân thân đã có 03 tiền án, nếu để bị cáo cải tạo ngoài xã hội sẽ làm mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần thiết phải xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm về ma túy.

Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đề nghị xét xử bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Nhân thân bị cáo có bản án hình sự sơ thẩm số 123/HSST ngày 27/5/2004 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội xử phạt 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo tài liệu xác minh thi hành án, không có căn cứ để chứng minh cơ quan thi hành án đã ra quyết định thi hành án phần án phí. Vì vậy bản án nay được coi là đã được xóa án. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo mắc nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

Xử lý vật chứng: - 0,270gam ma túy loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo (lưu giữ trong 01 bì giấy trong đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Văn M) là chất gây nghiện bị cấm lưu hành. 01 chìa khóa cửa cuốn màu đen là đồ vật bị cáo dùng để cất dấu ma túy. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc biển kiểm soát 29H1-71746: qua điều tra xác minh không có giá trị sử dụng. Nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 1.306.000đ, 02 điện thoại di động thu giữ của bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không chứng minh được liên quan đến tội phạm, nên trả lại cho bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Xử phạt Nguyễn Văn M 26(Hai mươi sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền bị cáo.

Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì giấy trong đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Nguyễn Văn M, 01 chìa khóa cửa cuốn màu đen, 01 chiếc biển kiểm soát 29H1-71746.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn M: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Asus mày trắng đen có số Imei1: 354865057371803, số Imei2: 354865077371811; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, số Imei1: 358115000990881, Imei2: 358115000990899. (Các vật chứng trên, hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 15/3/2019).

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn M số tiền 1.306.000đ( Một triệu ba trăm linh sáu nghìn đồng), nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 15/3/2019).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về