Bản án 42/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM T, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị B (tên gọi khác Nguyễn Thị G), sinh năm: 1969, tại Bình Thuận.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Bình Th, Phan Rí Th, Bắc B, tỉnh Bình Thuận.

Chỗ ở hiện nay: Không cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Cha: Không rõ họ tên; Mẹ: Nguyễn Thị T (chết); Chồng: Nguyễn Quốc H, sinh 1969; có 02 con (lớn nhất sinh 1996, nhỏ nhất sinh 1999).

- Tiền án: Ngày 08/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Ph, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 36/2017/HSST). Chấp hành xong hình phạt ngày 08/12/2018.

- Tiền sự: Không

- Nhân thân: Ngày 03/4/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Ph, tỉnh Bình Thuận xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 23/2013/HSST). Chấp hành xong hình phạt ngày 16/6/2013.

Bị cáo bị bắt ngày 02/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hàm T (có mặt).

* Bị hại: Nguyễn Thị Mộng Th, sinh năm 1965 (có mặt).

Nơi cư trú: Khu phố 3, thị trấn Tân M, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận.

* Người làm chứng: Hoàng Ngọc Th, sinh năm 1993

 Nơi cư trú: Thôn 5, xã Tân Đ, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 06 giờ ngày 02/6/2019, Nguyễn Thị B đón xe khách từ huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai về tỉnh Ninh Thuận. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến chợ Tân M thuộc khu phố 2, Tân M, Hàm T thì Bông xuống xe với mục đích đi vào trong chợ tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Khi đi ngang qua tiệm hớt tóc của bà Nguyễn Thị Mộng Th thì B vào mua dầu gội đầu và đưa 200.000 đồng để trả tiền, do không đủ tiền thối nên bà Th đến xe mô tô biển số 86X1-7880 mở cốp lấy tiền bên trong túi xách thối cho B, rồi bỏ túi xách vào lại cốp xe nhưng quên rút chìa khóa và đi vào bên trong tiệm. Lợi dụng sơ hở của bà Th, B liền đi đến mở cốp xe biển số 86X1-7880 lấy túi xách rồi đi ra hướng đường Quốc lộ 1A thì bị anh Hoàng Ngọc Th, phát hiện truy hô và cùng mọi người bắt giữ Nguyễn Thị B. Tang vật thu giữ: 01 túi xách vải sọc ca rô trắng xanh bên trong có tài sản gồm 01 nhẫn kim loại màu vàng, 02 đồng hồ đeo tay, 01 sợi dây chuyền bạc kèm mặt đá hình phật, số tiền 400.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/KL-HĐĐGTS ngày 05/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hàm T xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt ngày 02/6/2019:

+ 01 nhẫn kim loại màu vàng có khắc chữ bên trong PNJ 750, mặt nhẫn hình dạng bông hoa có gắn đá màu trắng giá trị 2.150.000 đồng;

+ 01 đồng hồ đeo tay hiệu Collezio giá trị 300.000 đồng;

+ 01 đồng hồ đeo tay hiệu ANNEKLEIN giá trị: 200.000 đồng;

+ 01 dây chuyền bằng kim loại màu bạc (có gắn mặt tượng phật) giá trị: 50.000 đồng;

Tng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.700.000 đồng + 400.000 đồng = 3.100.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 02/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo Nguyễn Thị B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị B như nội dung cáo trạng nêu và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B mức án 12 đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng.

- Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị B khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và thừa nhận cáo trạng của VKSND huyện Hàm T truy tố là hoàn toàn đúng với các hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

- Bị cáo Nguyễn Thị B không có ý kiến cũng như tranh luận gì đối với quan điểm của đại diện VKSND huyện Hàm Tân.

* Bị cáo Nguyễn Thị B nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố vụ án, Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm T, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về định tội và hình phạt: Tại Toà, bị cáo Nguyễn Thị B thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm T đã truy tố. Xét, lời khai của bị cáo tại Tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ căn cứ khẳng định: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 02/6/2019, tại khu phố 3, Tân M, Hàm T, Nguyễn Thị B đã lén lút mở cốp xe mô tô 86X1-7880 của bà Nguyễn Thị Mộng Th lấy trộm 01 túi xách vải sọc ca rô trắng xanh bên trong có 01 nhẫn kim loại vàng có khắc chữ bên trong PNJ 750, mặt nhẫn hình dạng bông hoa có gắn đá màu trắng; 01 đồng hồ đeo tay hiệu Collezio; 01 đồng hồ đeo tay hiệu ANNEKLEIN; 01 dây chuyền bằng kim loại màu bạc, có gắn mặt tượng phật và số tiền 400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 3.100.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị B đủ yếu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự .

[2.2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Mặc dù bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị nghiêm cấm, nhưng với bản tính tham lam, chây lười lao động, nên bị cáo đã lợi dụng sự mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, nhằm mục đích tư lợi cá nhân.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự xem thường pháp luật, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, tạo tâm lý mất an toàn trong quần chúng nhân dân. Do đó, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian, để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 36/2017/HSST ngày 08/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Ph, tỉnh Ninh Thuận xử phạt Nguyễn Thị B 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 08/12/2018, chưa được xóa án tích, đến ngày 02/6/2019 lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp "Tái phạm” nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo. Tại tòa bị hại đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[2.5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại bà Nguyễn Thị Mộng Th đã nhận lại tài sản bị cáo chiếm đoạt và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị B phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị B 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2019.

[2] Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Thị B phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo: Áp dung Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (06/9/2019) Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về