Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 855/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: anh Võ Thanh B, sinh năm: 1988. (Có mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã H, huyện Đ, thành phố Cần Thơ.

Bị đơn: chị Trần Thị D, sinh năm: 1990. (Vắng mặt)

Cùng địa chỉ: ấp B, xã H, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn anh Võ Thanh B trình bày: anh và chị D quen biết, tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2014, vợ chồng có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định. Thời gian chung sống được 03 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cãi, hôn nhân không còn hạnh phúc, vợ chồng không còn chung sống với nhau khoảng 02 năm nay. Nhận thấy tình cảm không còn, nay anh yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng với chị D.

- Về quan hệ con chung: có 01 con chung tên Võ Trọng N, sinh ngày: 19/12/2014 hiện đang sống với anh B. Anh B yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung: vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: không có.

Bị đơn chị Trần Thị D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị D vắng mặt không rõ lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của chị D về nội dung đơn khởi kiện của anh B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Anh Võ Thanh B yêu cầu ly hôn với chị Trần Thị D. Chị D có nơi cư trú tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn chị Trần Thị D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: anh Võ Thanh B và chị Trần Thị D xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Trong quá trình chung sống, anh B và chị D thường xuyên cự cãi, mâu thuẫn do tính tình không phù hợp, sống chung không hạnh phúc. Anh B xác định không còn tình cảm và không muốn hàn gắn với chị D, đồng thời anh, chị không còn chung sống với nhau khoảng 02 năm.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị D cũng không gửi cho Tòa án ý kiến cũng như không tham gia các phiên hòa giải, nên Tòa án đã lập biên bản tiến hành hòa giải không được. Hội đồng xét xử xét thấy anh B và chị D chung sống nhưng không đăng ký kết hôn nên hôn nhân của anh B và chị D là không hợp pháp. Do đó, chấp nhận yêu cầu của anh B, không công nhận anh B và chị D là vợ chồng, là phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về quan hệ con chung: có 01 con chung tên Võ Trọng N, sinh ngày: 19/12/2014. Trước đây vợ chồng cùng nuôi con chung nhưng từ khi vợ chồng không còn sống chung thì cháu N sống với anh B cho đến nay. Anh B yêu cầu được nuôi cháu N và không yêu cầu chị D cấp dưỡng.

Hội đồng xét xử xét thấy cháu N sống với anh B từ nhỏ, được anh B chăm sóc tốt và đảm bảo mọi mặt về chỗ ở, môi trường học tập, sinh hoạt cho cháu nên tâm tư, tình cảm của cháu gắn liền với anh B. Trong quá trình giải quyết vụ án chị D cũng không có ý kiến phản đối về yêu cầu của anh B. Do đó, để tạo điều kiện ổn định cho sự phát triển về thể chất và tinh thần cho cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh B, giao cháu N cho anh B tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc là phù hợp với quy định pháp luật

[5] Về mức cấp dưỡng nuôi con chung: do anh B không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Chị D không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng chị có quyền tới lui trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản chị D thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[6] Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ý kiến của anh Võ Thanh B trình bày vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về quan hệ nợ chung: ghi nhận ý kiến của anh Võ Thanh B trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: anh Võ Thanh B phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 9, 14, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Các Điều 28, 35, 146, 147, 227, 228, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Thanh B.

- Về quan hệ hôn nhân: không công nhận anh Võ Thanh B và chị Trần Thị D là vợ chồng.

- Về con chung: anh Võ Thanh B được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Võ Trọng N, sinh ngày: 19/12/2014. Chị Trần Thị D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Trần Thị D không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng chị có quyền tới lui trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản chị D thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định

- Về quan hệ tài sản chung: không xem xét, giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: ghi nhận anh Võ Thanh B xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ sống chung thì anh Võ Thanh B và chị Trần Thị D vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: anh Võ Thanh B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000505 ngày 25/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Anh B đã nộp xong.

Anh Võ Thanh B được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Trần Thị D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 22/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:42/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về