TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 181/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1972 (có mặt)
Trú tại: Thôn S, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bị đơn: Anh Lưu Văn T, sinh năm 1970 (vắng mặt)
Trú tại: Thôn S, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/8/2019 và những lời khai trong quá trình làm việc cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:
Chị và anh Lưu Văn T kết hôn ngày 25 tháng 12 năm 1991 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Vĩnh Phúc). Trong quá trình chung sống tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T thường xuyên uống rượu về nhà chửi bới, đánh đập chị. Chị bỏ đi ở nhờ nhiều nơi, lần gần đây nhất từ tháng 8 năm 2018. Hai vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Lưu Văn T, sinh ngày 18/8/1993 và cháu Lưu Thị Hải Y, sinh ngày 24/7/1997. Hiện các cháu đã thành niên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Bị đơn là anh Lưu Văn T không có mặt tại phiên tòa.Tuy nhiên tại bản tự khai cũng như quá trình làm việc tại Tòa án anh trình bày: Anh thừa nhận về thời gian kết hôn, đăng ký kết hôn và quá trình chung sống như lời trình bày của nguyên đơn là đúng. Tuy nhiên, vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, thỉnh thoảng hai vợ chồng có cãi vã, chị N bỏ đi từ tháng 8 năm 2018 đến nay không về nhà, hai vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, chị N không quan tâm gì đến gia đình. Nay chị N xin ly hôn, anh không đồng ý vì vẫn còn tình cảm với chị N.
Về con chung: Bị đơn xác nhận vợ chồng có 02 con chung như chị N trình bày là đúng. Hiện các cháu đã thành niên. Ly hôn, anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về tài sản, công nợ, đất canh tác và công sức: Các đương sự đều không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, chị N được ly hôn anh T; Về con chung, tài sản chung, tài sản riêng và các vấn đề khác: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị N có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lưu Văn T, anh T có nơi cư trú tại xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc. Do vậy, xác định đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng cố tình vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Lưu Văn T kết hôn với nhau ngày 25 tháng 12 năm 1991 trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn do luật định nên quan hệ hôn nhân này là hợp pháp. Trong quá trình chung sống tình cảm vợ chồng bình thường sau đó phát sinh mâu thuẫn. Theo chị N khai nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T thường xuyên uống rượu về nhà chửi bới, đánh đập chị, Chị bỏ đi ở nhờ nhiều nơi, lần gần đây nhất từ tháng 8 năm 2018. Hai vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay không quan tâm gì đến nhau. Theo anh T vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn thỉnh thoảng có xảy ra cãi vã. Phía chị N khẳng định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị được ly hôn với anh T. Phía anh T không đồng ý ly hôn nhưng trong quá trình sống ly thân anh T cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử thấy giữa chị N và anh T không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc nhau, điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị N và anh T được ly hôn là phù hợp với quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị N và anh T thừa nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu Lưu Văn T, sinh ngày 18/8/1993 và cháu Lưu Thị Hải Y, sinh ngày 24/7/1997. Hiện các cháu đã thành niên, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản, công nợ, công sức và đất canh tác: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 51, 56, 57 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Lưu Văn T.
2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí sơ thẩm nhưng được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2017/0001224 ngày 20 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Đảo. Xác nhận chị N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 42/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về