Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 10/10/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân (viết tắt là TAND) huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 233/2019/TLST-HNGĐ ngày 14/8/2019 về việc: Ly hôn, nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23/9/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1990, có mặt.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã Đ, huyện TH, tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ: Thôn A, xã C, huyện M, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn M, sinh năm 1986, có mặt.

Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện TH, tỉnh Hải Dương.

3. Những người làm chứng:

Ông Hoàng Văn E, sinh năm 1959, đề nghị xét xử vắng mặt.

Chị Hoàng Thị I, sinh năm 1978, đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện TH, tỉnh Hải Dương.

Ông Lê Xuân T, sinh năm 1954, có mặt.

Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1954, đề nghị xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn A, xã C, huyện M, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên toà nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày: Chị H và anh Hoàng Văn M kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã Đ, huyện TH, tỉnh Hải Dương vào ngày 23/10/2009. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 11 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do hai bên bất đồng quan điểm sống, không hợp tính nết, đời sống tình cảm vợ chồng không hòa thuận. Khi vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình động viên, hòa giải nhiều lần nhưng không thành, tình cảm ngày càng lạnh nhạt. Do tình cảm không được cải thiện, nên từ tháng 02 năm 2019 chị H và anh M sống ly thân, không quan tâm tới nhau, việc ai người đó làm. Nay nhận thấy tình cảm, tình nghĩa vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh M.

Ti bản tự khai, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Hoàng Văn M trình bày: Anh M và chị H kết hôn với nhau trên cơ sở pháp luật, được UBND xã Đ đăng ký và cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2009. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do hai bên bất đồng quan điểm sống, không hợp tính nết, không tin tưởng nhau. Khi vợ chồng phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên động viên, hòa giải nhiều lần, nhưng chị H cương quyết, từ chối đoàn tụ hôn nhân, hiện tại đã sống ly thân, không còn quan tâm tới nhau, việc ai người đó làm. Nay anh M xác định tình cảm, tình nghĩa vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H xin ly hôn, anh M đồng ý ly hôn.

Về con chung: Chị H, anh M xác định có hai con chung là HOàng Công U, sinh ngày 29/8/2010, Hoàng Bảo N, sinh ngày 20/10/2016. Ly hôn, chị H có quan điểm nhận nuôi dưỡng cháu N, vì cháu N chưa đủ 36 tháng tuổi, còn cháu U để anh M nuôi dưỡng, hai bên không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau. Anh M có quan điểm xin nhận nuôi dưỡng cả hai con, nếu được nuôi dưỡng, anh M tự nguyện không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Chị H, anh M tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết, không yêu cầu Tòa án ghi nhận.

Tại biên bản lấy lời khai của ông Lê Xuân T, bà Nguyễn Thị V (bố, mẹ đẻ của chị H) và ông Hoàng Văn E, chị Hoàng Thị I (là bố đẻ và chị gái của anh M) đều xác định: Chị H, anh M là vợ chồng, quá trình chung sống hai bên đương sự phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa các đương sự do bất đồng quan điểm sống, không còn tin tưởng vào nhau và đã sống ly thân, không còn tình cảm, tình nghĩa vợ chồng. Những người làm chứng đề nghị Tòa án giải quyết cho hai bên đương sự được ly hôn. Về con chung của hai bên đương sự: Ông T, bà V đề nghị giao cháu N cho chị H nuôi dưỡng. Ông E, chị I đề nghị giao cháu U, cháu N cho anh M nuôi dưỡng.

Đại diện VKSND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Xác định trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng dân sự về việc nhận đơn khởi kiện, thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, cấp tống đạt và gửi các văn bản tố tụng cũng như thời hạn giải quyết vụ án. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng các nguyên tắc và thủ tục tố tụng. Các đương sự đều đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

Về điều luật áp dụng: Đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng các Điều 55, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Các Điều 147, 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Luật phí và lệ phí. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân, đề nghị: Xử, công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị H và anh M. Về con chung: Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế của các bên đương sự, nguyện vọng con chung của đương sự. Đề nghị giao cháu N cho chị H nuôi dưỡng; giao cháu U cho anh M nuôi dưỡng. Hai bên đương sự, không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Về tài sản chung, công nợ, công sức, không đề nghị giải quyết. Về án phí, chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử, nhận định.

[1] Về thẩm quyền: Chị Lê Thị H có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình với Hoàng Văn M. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.

[2]. Về hôn nhân: Chị Lê Thị H, anh Hoàng Văn M kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn tại UBND xã Đ vào ngày 23/10/2009, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hai bên đương sự phát sinh mâu thuẫn vợ chồng. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị H, anh M là do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính nết, đời sống tình cảm vợ chồng không hòa thuận và không còn tin tưởng vào nhau. Hiện tại các đương sự đã sống ly thân mỗi người một nơi, không còn quan tâm tới nhau, việc ai người đó làm. Xác minh với UBND xã Đ, người thân trong gia đình của chị H, anh M đều xác định: Mâu thuẫn vợ chồng giữa các đương sự đã trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ hôn nhân. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị H, anh M đều thuận tình ly hôn. Từ những căn cứ như đã nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân giữa các đương sự đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của các đương sự và quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Xử, công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị H và anh M là đúng pháp luật, phù hợp với thực tế.

[3]. Về con chung: Chị H, anh M có hai con chung là HOàng Công U, sinh ngày 29/8/2010; Hoàng Bảo N, sinh ngày 20/10/2016, hiện tại do anh M nuôi dưỡng. Ly hôn, chị H có quan điểm xin nhận nuôi dưỡng cháu N, còn cháu U có nguyện vọng ở với bố, nên đề nghị giao cho anh M tiếp tục nuôi dưỡng. Anh M có quan điểm xin nhận nuôi dưỡng cả hai con và tự nguyện không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Sau khi xem xét nguyện vọng của hai bên đương sự, quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử thấy rằng nguyện vọng nuôi con của các bên đương sự là chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi dưỡng phải xuất phát từ lợi ích về mọi mặt, quyền lợi, nguyện vọng của các con chưa thành niên, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sinh sống, điều kiện làm việc thực tế của mỗi bên đương sự.

Đi với việc nuôi dưỡng con chung của hai bên đương sự, Hội đồng xét xử thấy rằng cháu hiện tại cháu N chưa đủ 36 tháng tuổi; cháu U trên 07 tuổi, đang sinh sống, học tập ổn định tại xã Đ và do anh M nuôi dưỡng. Xác minh với chính quyền thôn B, đoàn thể và UBND xã Đ đều đề nghị Tòa án căn cứ các quy định của pháp luật, điều kiện, hoàn cảnh cuộc sống thực tế của mỗi bên đương sự, nguyện vọng con chung của chị H, anh M để phân định việc nuôi dưỡng cháu U, cháu N. Xét thấy chị H và anh M đều đảm bảo các điều kiện về nuôi dưỡng, giáo dục con chung, tuy nhiên do cháu N còn nhỏ tuổi (chưa đủ 36 tháng tuổi), chị H là người mẹ nên có khả năng chăm sóc khéo léo hơn so với người cha là anh M. Vì vậy giao cháu N cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là hợp tình, hợp lý. Đối với cháu U trên 07 tuổi, có nguyện vọng xin được ở với anh M, nên Hội đồng xét xử tiếp tục giao anh M nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế. Như vậy việc giao con chung cho chị H, anh M mỗi người nuôi dưỡng một con như đã nêu ở trên là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cuộc sống của các bên đương sự cũng như các quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do mỗi bên đương sự nuôi dưỡng một con chung, nên chị H, anh M không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau, có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

[4]. Về tài sản chung, công nợ, công sức: Chị H, anh M đều tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết, không yêu cầu ghi nhận. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị H có đơn khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình, nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 55, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử, công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị H và anh Hoàng Văn M.

Về con chung: Xử, giao con Hoàng Bảo N, sinh ngày 20/10/2016 cho chị Lê Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao con HOàng Công U, sinh ngày 29/8/2010 cho anh Hoàng Văn M tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Thời điểm nuôi dưỡng con chung của các bên đương sự, kể từ tháng 10 năm 2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chị H, anh M không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Lê Thị H phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0005619, ngày 13/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.

Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị Hường, anh Hoàng Văn M được quyền kháng cáo bản án, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:42/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về