Bản án 42/2018/HSST ngày 25/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 42/2018/HSST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/2018/TLST-HS, ngày 07 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2018/HSST-QĐ ngày 14/5/2018 đối với bị cáo: Lâm Hồng S, sinh ngày 09/3/2000 tại Tuyên Quang

Nơi cư trú: Xóm 3, xã K, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ học vấn 10/12; con ông: Lâm Văn X, sinh năm 1971 và bà Lâm Thị T, sinh năm 1972; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Kim Tuyến - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa

* Người bị hại: Anh Dương Vũ S, trú tại: Số nhà 10, tổ 11, phường P, thành

phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lâm Văn X và bà Lâm ThịT.

 Cùng địa chỉ: Xóm 3, xã K, huyện Y tỉnh Tuyên Quang. Ông X có mặt tại phiên tòa, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 01/11/2017, Lâm Hồng S đi làm (lăn S) tại nhà ông Vũ Quang Đ ở tổ 11, phường P, thành phố T. Đến nơi, S đi sang căn nhà số 10, là nhà S đã lăn S ngày trước đó, sau khi lấy bộ quần áo lao động trên tầng 3, S quay xuống tầng 2 nhìn thấy cửa phòng cạnh cầu thang mở, trên bệ cửa sổ có 01 điện thoại di động Samsung nhãn hiệu J7 Prime màu hồng của anh Dương Vũ S, đang cắm sạc điện nên đã nảy sinh ý định trộm cắp, S lấy chiếc điện thoại giấu vào áo bảo hộ lao động rồi đi sang nhà anh Đ; S tháo sim điện thoại, bẻ vứt sim vào bồn cầu nhà vệ sinh tầng 1, rồi mang điện thoại lên tầng 2, giấu vào phía sau bồn cầu nhà vệ sinh; sau đó do lo sợ bị phát hiện, S quay lại chỗ giấu điện thoại, cầm ném chiếc điện thoại qua ô thoáng nhà vệ sinh xuống đất.

Sau khi nhận tin báo của anh Dương Vũ S, Công an phường Phan Thiết đã tiến hành xác minh, truy tìm vật chứng, thu giữ 01 sim điện thoại số 8984020021593730374, đồng thời tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime màu hồng, tình trạng điện thoại bị xước, móp méo, camera bị vỡ và dính S bề mặt do ông Vũ Quang Đ giao nộp.

Kết luận định giá tài sản số 159 ngày 06/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tuyên Quang, kết luận: Điện thoại di động Samsung, nhãn hiệu J7 Prime màu hồng, giá trị còn lại là 3.850.000 đồng.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 39/QĐ-KSĐT ngày 27 tháng 4 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Lâm Hồng S về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lâm Hồng S, đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản.

Về mức hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90, 98, 100 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lâm Hồng S từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Về vật chứng: Trả lại cho ông Lâm Văn X và bà Lâm Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu hồng, máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong tình trạng điện thoại không có sim trong khe sim, điện thoại bị xước, móp vỡ camera phía sau, bề mặt kính màn hình và màn hình có bám dính tạp chất màu trắng. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Về phần bồi thường dân sự: Ngày 01/11/2017, ông Lâm Văn X và bà Lâm Thị T là bố mẹ đẻ của Lâm Hồng S đã mua 01 điện thoại Samsung có giá trị tương đương, trả cho anh Dương Vũ S. Anh S không có yêu cầu, đề nghị gì nên không xem xét.

Trợ giúp viên pháp lý nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh và điều khoản truy tố và đề nghị HĐXX căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90, 98, 100 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo hưởng mức án cải tạo không giam giữ ở mức đầu khung hình phạt.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Lâm Hồng S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh tụng, bị cáo Lâm Hồng S nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chobị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát

điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2]Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lâm Hồng S tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản xác minh hiện trường, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, lời khai nhận tội của bị can cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 01/11/2017, tại tổ 11, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Lâm Hồng S đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 Prime, trị giá 3.850.000đ (Ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) của anh Dương Vũ S, cư trú tại tổ 11, phường Phan Thiết, thành phố Tuyên Quang.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đã có hành vi lén lút, bí mật trốn tránh sự phát hiện của người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản của họ. Hành vi của bị cáo được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp, mục đích vụ lợi. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội

Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và bị cáo đã tác động đến gia đình tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác về tài sản, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường pháp luật d o vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải phải có hình phạt nghiêm minh nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo vẫn là người chưa thành niên (17 tuổi 07 tháng 21 ngày) do đó ở độ tuổi này bị cáo là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và nhận thức về pháp luật cũng chưa đầy đủ. Bị cáo phạm tội do suy nghĩ nông nổi, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra, truy tố, xét xử thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nơi thường trú rõ ràng. Vì vậy, để bị cáo có cơ hội phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện trở thành một công dân có ích cho xã hội cần chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, cho bị cáo hưởng mức án Cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục.

Bị cáo là người chưa thành niên hiện đang sống phụ thuộc gia đình nên không khấu trừ thu nhập của bị cáo theo quy định tại Điều 100 Bộ luật hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo đề nghị là phù hợp nên chấp nhận

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Ngày 01/11/2017, ông Lâm Văn X và bà Lâm Thị Tlà bố mẹ đẻ của Lâm Hồng S đã mua 01 điện thoại Samsung có giá trị tương đương, trả cho anh Dương Vũ S. Anh S không có yêu cầu, đề nghị gì, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

 [7] Về vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan điều tra thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu hồng, máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong tình trạng điện thoại không có sim trong khe

sim, điện thoại bị xước, móp vỡ camera phía sau, bề mặt kính màn hình và màn hình có bám dính tạp chất màu trắng. Đây là tài sản do bị cáo trộm cắp của bị hại, tuy nhiên sau khi bị phát hiện bố mẹ bị cáo là ông Lâm Văn Xvà bà Lâm Thị Tđã mua chiếc điện thoại khác cùng loại trả cho bị hại, người bị hại không có yêu cầu gì về tài sản bị mất nữa. Tại phiên tòa bị cáo và bố đẻ bị cáo ông Lâm Văn Xđều đề nghị HĐXX xem xét trả lại chiếc điện thoại này cho ông Lâm Văn Xvà bà Lâm Thị Trại. Xét thấy đề nghị của ông Lâm Văn Xvà bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

 [8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 [9] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; 98; 100 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố: Bị cáo Lâm Hồng S phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt bị cáo Lâm Hồng S 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian Cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Lâm Hồng S cho Ủy ban nhân dân xã Kim Phú, huyện Yên S, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt Cải tạo không giam giữ.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả cho ông Lâm Văn X và bà Lâm Thị T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu hồng, máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong tình trạng điện thoại không có sim trong khe sim, điện thoại bị xước, móp vỡ camera phía sau, bề mặt kính màn hình và màn hình có bám dính tạp chất màu trắng. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 18/5/2018.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Lâm Hồng S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố  tụng hình sự năm 2015:

Bị cáo, người có quyền lợi liên quan có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tạo phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/HSST ngày 25/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về