Bản án 42/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 42/2018/HS-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 04 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 45/2018/TLST-HS ngày 23/03/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2018/QĐXXST-HS ngày 29/03/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1984 tại Hà Nam; Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ là Vi Thị H, sinh năm 1982 và 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/12/2012, Chủ tịch UBND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng; bị bắt, tạm giữ ngày 30/12/2017, tạm giam ngày 05/01/2018; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Trần Văn L, sinh năm 1974; trú tại: Số nhà N, tổ M, phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 30/12/2017, Nguyễn Văn T điều khiển xe môtô biển kiểm soát 90H9-29… từ nhà ở thôn P, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam đến khu vực cầu Câu Tử thuộc xã Đ, thành phố Phủ Lý thì T gặp bạn nghiện mới quen tên là C khoảng 30 tuổi (T không biết cụ thể tên tuổi, địa chỉ). Trong lúc nói chuyện, C rủ T đi mua ma túy để sử dụng. Sau đó, C điều khiển xe môtô chở T đến thành phố Phủ Lý tìm mua ma túy. Khi đi đến khu vực đường 42m thuộc tổ dân phố Thá, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý thì C dừng xe lại, bảo T xuống xe đứng đợi rồi điều khiển xe đi tiếp. Một lúc sau C quay lại đưa cho T 01 gói giấy bạc màu trắng và nói: “Anh cầm lấy hàng, mình cùng chơi”, T hiểu ý C bảo là cầm lấy ma túy để cùng sử dụng nên cầm gói ma túy bỏ vào túi áo khoác bên trái phía trước đang mặc. Ngay lúc đó bị lực lượng Công an phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý phát hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra, C bỏ chạy thoát còn T tự lấy trong túi áo khoác đang mặc giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục T khai nhận đó là ma túy cất giấu để sử dụng.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn T gồm: 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe môtô nhãn hiệu SHMOTO màu xanh, BKS: 90H9-29…; 01 ví giả da và 01 điện thoại di động nhãn hiệu XIND.

Tại bản Kết luận giám định số 243/PC54-MT ngày 31/12/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, trọng lượng 0,236 gam. Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, TT 20 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”.

Bản cáo trạng số 55/CT-VKSTP ngày 23/03/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt Nguyễn Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp chứng cứ khác của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 30/12/2017, tại khu vực đường 42m thuộc tổ dân phố Thá, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn T bị lực lượng Công an phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện, bắt giữ quả tang khi đang tàng trữ trái phép 0,236 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 nay là điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Việc áp dụng quy định Bộ luật Hình sự năm 2015 để truy tố đối với bị cáo là áp dụng quy định có lợi cho bị cáo về hình phạt theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị xử lý hành chính bằng hình thức áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh để cai nghiện ma túy (đã hết thời hạn coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố đẻ của bị cáo là người có công trong kháng chiến được tặng thưởng huy chương nên bị cáo sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ pháp luật quy định.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động tự do, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với đối tượng tên C đã cùng bị cáo đi mua ma túy và người bán trái phép ma túy cho C, do Cơ quan điều tra không xác định đặc điểm nhân thân, địa chỉ của những người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu SHMOTO màu xanh, BKS: 90H9-29…, qua xác minh cơ quan điều tra đã làm rõ đây là tài sản của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nay sẽ tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

+ Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu XIND và 01 ví giả da là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án sẽ trả lại cho bị cáo.

+ Đối với toàn bộ số Heroine cùng bao gói sẽ tịch thu, tiêu hủy. [8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2017.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) xe môtô nhãn hiệu SHMOTO màu xanh, BKS: 90H9-2963, số máy: VTT14JL1P52FMH018882,  số khung: RRKWCHOVM8XY18882.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu XIND, số IMEI: 861171001119791 và 01 (một) ví giả da màu nâu.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 243/PC54-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam;

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 23/03/2018.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Văn T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về