Bản án 42/2018/HS-ST ngày 05/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 42/2018/HS-ST NGÀY 05/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Dương Quang V; Sinh năm: 1992 (theo Bản giám định pháp y về độ tuổi số: 12/ĐT.18 ngày 12 tháng 4 năm 2018 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh thì Dương Quang V có độ tuổi từ trên 20 tuổi đến dưới 23 tuổi); Sinh tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Không xác định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Dương Văn B và bà: Trương Thị X; Có vợ: Là bà Trương Thị Bích T và con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2013; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 12/8/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy (Quyết định số: 121/QĐ-TA). Chấp hành xong ngày 05/7/2017 (Giấy chứng nhận về việc chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc số: 348/GCN-TR3 ngày 29/6/2017 của Trường Giáo dục Đào tạo và Giải quyết việc làm Số 3); Bị bắt, tạm giam ngày 12/01/2018.

Nhân thân: Ngày 08/5/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản » (Bản án số: 52/2014/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/4/2015 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 337/GCN của Trại giam Xuyên Mộc). (có mặt)

- Bị hại:

Bà Dương Thị Thúy Q; Sinh năm: 1997; Thường trú: Ấp 2, xã ML, huyện CL, tỉnh ĐT; Chỗ ở: 31 đường số 32 BP, Phường J, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Trần Tô N; Sinh năm: 1968; Trú tại: 338/162/6 đường CL, phường BTĐA, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 20 phút ngày 12/01/2018, Dương Quang V điều kiển xe gắn máy biển số 50N1-377.80 lưu thông từ vòng xoay PL về đường LG. Khi đến trước nhà số 1035 đường HB, Phường L, Quận F, V phát hiện có chiếc xe gắn máy hiệu Honda Vision của bà Dương Thị Thúy Q đang dựng trên lề đường, trong hộc phía trước bên trái của chiếc xe có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Plus màu đồng, còn bà Q đang đứng nói chuyện với ông Nguyễn Ngọc H cách chỗ để chiếc xe khoảng 02 mét, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định, V điều khiển xe áp sát xe bà Q, đồng thời dùng tay phải lấy chiếc điện thoại để trong hộc rồi định vọt xe tẩu thoát. Ngay lúc này, bà Q phát hiện tri hô. Thấy vậy, V ném chiếc điện thoại xuống đường và bỏ xe chạy bộ để tẩu thoát, nhưng bị bà Q, ông H cùng quần chúng xung quanh đuổi theo bắt giữ giao Công an Phường L, Quận F giải quyết.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Plus màu đồng và 01 chiếc xe gắn máy biển số 50N1-377.80.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6: Dương Quang V khai nhận đã thực hiện hành vi nêu trên.

Bị hại và người làm chứng khai cũng tương tự.

Tại Văn bản số: 69/TCKH ngày 19 tháng 01 năm 2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6 thống nhất giá như sau: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Plus màu đồng, Imei 1: 35208/09/143814/3, Imei 2: 35209/09/143814/1, có giá là: 6.900.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 49/CT-VKS ngày 04 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Dương Quang V về tội « Trộm cắp tài sản » theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Dương Quang V khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Plus màu đồng của bà Dương Thị Thúy Q tại trước nhà số 1035 đường HB, Phường L, Quận F vào khoảng 22 giờ ngày 12/01/2018 và bị bắt quả tang như bản cáo trạng nêu;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trần Tô N khai chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Angel, biển số 50N1-377.80, số khung RLGXA10CD4D136027, số máy VMEVA2136027 là xe của bà. Khuya ngày 30/12/2017, bà để chiếc xe trong sân nhà của bà tại số 338/162/6 đường CL, phường BTĐA, quận BT thì bị mất trộm và bà xác nhận Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã trả chiếc xe lại cho bà. Nay, bà không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Dương Quang V như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Dương Quang V từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản » theo khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, nên không đề nghị giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Dương Quang V nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Dương Quang V tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị hại Dương Thị Thúy Q, của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Dương Quang V đã lợi dụng sự sơ hở của bà Dương Thị Thúy Q, lén lút chiếm đoạt của bà Q 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Plus màu đồng, trị giá 6.900.000 đồng, là phạm tội « Trộm cắp tài sản ». Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Dương Quang V là quá liều lĩnh, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân.

Bị cáo Dương Quang V có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng do tham lam, lười lao động, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên.

[3] Bản thân bị cáo Dương Quang V ngày 12/8/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 6 Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy. Ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân xấu, đó là ngày 08/5/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 6 xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội « Trộm cắp tài sản ». Mặc dù lần phạm tội này bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, bị cáo vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Dương Quang V tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, việc bị cáo bị phát hiện bắt giữ là hoàn toàn ngoài ý muốn của bị cáo, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn (tài sản đã được thu hồi trả bị hại); tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì bị cáo Dương Quang V còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Xét bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc bồi thường thiệt hại: Bị hại Dương Thị Thúy Q không có ý kiến hay yêu cầu gì về phần bồi thường, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Việc xử lý vật chứng: Chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Plus màu đồng, Imei 1: 35208/09/143814/3, Imei 2: 35209/09/143814/1 mà bị cáo Dương Quang V chiếm đoạt, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã thu hồi và trả lại cho bà Dương Thị Thúy Q (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 26/3/2018 - BL66), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

Đối với chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Angel, biển số 50N1-377.80, số khung RLGXA10CD4D136027, số máy VMEVA2136027. Qua xác minh, Cơ quan điều tra xác định bà Trần Tô N là chủ sở hữu của chiếc xe này, nên đã trả chiếc xe lại cho bà N (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 09/3/2018 - BL77), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Dương Quang V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại  Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Dương Quang V phạm tội: « Trộm cắp tài sản ».

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Dương Quang V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/01/2018.

- Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số  326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Dương Quang V phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Dương Quang V; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trần Tô N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/HS-ST ngày 05/06/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về