Bản án 42/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 42/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 04 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 116/2018/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2018/QĐST- HNGĐ, ngày 14 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị G - sinh năm 1985;

Địa chỉ: số nhà 2xx, tổ 1x, phường Tr, thành phố Ph, tỉnh Hà Nam.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn D - sinh năm 1991;

Địa chỉ: Xóm 3, thôn Tr , xã , huyện K , tỉnh Thái Bình.

( Chị G có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, anh D vắng mặt lần thứ 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn chị Phạm Thị G có yêu cầu khởi kiện và trình bày như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh D tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B , huyện K , tỉnh Thái Bình vào ngày 01/02/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng chị lên Hà Nội làm ăn sinh sống hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do kinh tế không được ổn định, tính tình giữa vợ chồng không hợp nhau, bất hòa về quan điểm sống, động đến vấn đề gì cũng xảy ra tranh cãi, xô xát, có khi còn đánh nhau. Cuối năm 2013 sau khi cãi nhau thì không ai nói với ai trong một thời gian dài, rồi vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh D .

- Về quan hệ con chung: Không có

- Về quan hệ tài sản, nợ chung: Không có.

* Bị đơn là anh Bùi Văn D không đến Tòa để tham gia tố tụng, khi Tòa án về địa phương cũng không gặp được nên Tòa án không lấy được lời khai.

* Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã B ngày 21/8/2018 cán bộ đại diện cho Đoàn thể, đại diện chính quyền cung cấp cho biết: Anh D có hộ khẩu thường trú tại thôn Tr xã B , chị G chưa nhập khẩu về B . Anh chị D G kết hôn tại xã B vào ngày 01/02/2013, sau kết hôn anh chị chung sống tại địa phương một thời gian ngắn rồi đi làm ăn xa nên mâu thuẫn của anh chị địa phương không nắm được cụ thể. Khoảng 04 năm trở lại đây thì thấy anh D về địa phương đi làm cùng bố mẹ, nhưng không thấy chị G về cùng. Nay chị G xin ly hôn, quan điểm của địa phương là khả năng đoàn tụ là khó vì tính tình anh chị này không hợp nhau. Anh D và chị G không đăng ký khai sinh cho con chung tại xã. Anh D và chị G không có tài sản chung, không có nợ với tập thể.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn từ bỏ quyền, không thực hiện hết nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị G được ly hôn anh D ; Về con chung: Không có;

Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết; Về án phí: chị G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, hội đồng xét xử nhận định:

[I] Về pháp luật tố tụng:

[1] Bị đơn là anh Bùi Văn D có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã B , huyện K , tỉnh Thái Bình, hiện không có mặt ở địa phương nhưng vẫn liên hệ và thỉnh thoảng về thăm gia đình nhưng không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng. Ngày 24/8/2018 chị G có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh D vắng mặt là lần thứ 2. Vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị G và anh D là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án chỉ có nguyên đơn và bị đơn, họ đều vắng mặt nên phiên tòa được tiến hành theo thủ tục quy định tại điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã Bình Định để làm rõ tình trạng hôn nhân và địa chỉ cư trú của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[II] Về pháp luật nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân của chị G và anh D có chứng nhận kết hôn, đó là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng đã sống ly thân do tính tình không hợp nhau. Đến nay cả hai vợ chồng đều không quan tâm đến nhau, không thực hiện được nghĩa vụ của vợ chồng. Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa vợ chồng chị G và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho chị G được ly hôn với anh D là phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về quan hệ con chung: Không có.

[3] Về tài sản chung: Vì chị G khai không có tài sản chung, anh D không có lời khai, nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Chị G phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị G được ly hôn anh Bùi Văn D .

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị G phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị G đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001087 ngày 31/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chị G đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/HNGĐ-ST ngày 04/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:42/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về