Bản án 42/2017/HSST ngày 22/05/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 42/2017/HSST NGÀY 22/05/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 22/5/2017 tại Toà án nhân dân huyện Mường La, xét xử sơ thẩm về hình sự vụ án thụ lý số 43/2017/HSST ngày 19/4/2017. Đối với bị cáo.

Họ và tên: Tòng Văn H, sinh ngày 20/9/1990. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Dân tộc: Thái. Quốc tịch: Việt Nam. Trình độ văn hoá: 9/12. Đoàn thể đảng phái: Không. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không; Con ông Tòng Văn M, sinh năm 1945 và bà Tòng Thị L, sinh năm 1946. Vợ là Tòng Thị P, sinh năm 1995. Hiện nay bố mẹ, vợ bị cáo đều cư trú tại bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/01/2017 đến nay có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La truy tố về hành vi thực hiện tội phạm như sau:

Vào hồi 13h 30 phút ngày 25/5/2016 Công an xã Mường Chùm, huyện Mường La phát hiện bắt quả tang Tòng Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói được gói bằng nilon màu hồng trong chứa chất bột màu trắng theo H khai là hêrôin tại khu vực bản P, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói được gói bằng nilon màu hồng trong chứa chất bột màu trắng theo H khai là hêrôin.

Tòng Văn H khai nhận rằng: Khoảng 11h ngày 25/5/2016 Tòng Văn H đi bộ từ xã Nà Bó, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La về nhà, khi đến đoạn đường thuộc bản P, xã M, huyện M thì H gặp một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết. H hỏi người đàn ông này “ Có hêrôin bán không?”, người đó trả lời “ Có, anh mua bao nhiêu?”, H liền lấy 400.000đ đưa cho người đàn ông đó, người đó nhận tiền và lấy 01 gói nhỏ được gói trong giấy nilon màu hồng trong chứa hêrôin đưa cho H, H nhận gói hêrôin cầm trên tay để mang về nhà sử dụng dần. Khi về đến khu vực bản P, xã M, huyện M thì bị tổ công tác công an xã M phát hiện bắt quả tang. Sau đó Tòng Văn H được trả tự do để chờ kết quả giám định chất ma túy nên bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 12/01/2017 mới bắt được Tòng Văn H.

Đối với người bán hêrôin cho Tòng Văn H, do không xác định được họ tên, địa chỉ nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Ngày 25/5/2016 Công an huyện Mường La tiến hành cân tịnh gói chất bột màu trắng thu giữ của Tòng Văn Hốc có trọng lượng 0,70 gam, ký hiệu H.

Ngày 07/9/2016 Công an huyện Mường La đã ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy đối với mẫu ký hiệu H.

Ngày 20/9/2016 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có bản kết luận giám định số 666/KLGĐ, xác định mẫu giám định ký hiệu H có thành phần hêrôin, hàm lượng 41%.

Tại bản cáo trạng số 202/KSĐT-MT ngày 18/4/2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường La đã truy tố bị cáo Tòng Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo khoản 1 Điều 194 BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm, quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1

Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS và đề nghị mức hình phạt tù đối với bị cáo Tòng Văn H từ 24 đến 30 tháng tù giam, về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đối với vật chứng của vụ án:

01 phong bì công văn Công an huyện M được niêm phong dán kín, bên trong đựng vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ và 0,58 gam chất bột màu trắng, có thành phần hê rô in, đề nghị tịch thu hủy. Đề nghị buộc bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai báo, nhận tội, phù hợp với các chứng cứcủa vụ án. Như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của bị cáo, vật chứng và kết luận giám định vật chứng của vụ án. Cụ thể: ngày 25/5/2016 bị cáo Tòng Văn H đã có hành tàng trữ trái phép 0,70 gam chất ma túy, hàm lượng hêrôin 41% bằng 0,287 gam hêrôin, tại khu vực bản P, xã M, huyện M - Sơn La, với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội danh được quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999; và được quy định tại Điều 249 BLHS năm 2015. Điều 194 BLHS năm 1999 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”Điều 249 BLHS năm 2015 quy định:

 “ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

d) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;

h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này”.

Do vậy bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật về hành vi của mình.

Tại điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13 quy định: “ Thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 100/2015/QH13 và điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Hình sự; tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 1 và các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/QH13”.

Tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 quy định:

“ a) Tất cả các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016.

b) Các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, xóa bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích”.

Tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “ Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

Đối chiếu tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 thì tương ứng với khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, nhưng khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, nên hành vi phạm tội của Tòng Văn H được áp dụng xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình làm là nguy hiểm cho xã hội và bản thân, nhưng do nghiện chất ma túy nên bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo là thuộc trường hợp nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội ở địa phương. Xét nhân thân của bị cáo, tuy được coi là không có tiền án, nhưng ngày 20/5/2009 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Mường La xử phạt 36 tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 12/01/2009, bị cáo đã được xóa án tích, nhưng bị coi là có nhân thân xấu. Song khi lượng hình Toà cần xem xét áp dụng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, theo điểm p, khoản 1 điều 46 BLHS, vì sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo. Do vậy Tòa cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 194 quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản…”. Xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo nghiện chất ma túy, có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, thu nhập không ổn định, tài sản không có gì giá trị lớn, bị cáo không có khả năng thi hành, Toà cần xem xét không áp dụng đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án gồm:

01 phong bì công văn Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong đựng vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ và 0,58 gam chất bột màu trắng, có thành phần hê rô in,Tòa cần tịch thu hủy.

Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Tòng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13; điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 109/2015/QH13; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Tòng Văn H 24 ( Hai mươi bốn) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam giữ ( ngày 12/01/2017).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 41 BLHS, khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Vật chứng thu giữ của vụ án gồm, được xử lý như sau:

- 01 phong bì công văn Công an huyện Mường La được niêm phong dán kín, bên trong đựng vỏ phong bì cũ, giấy gói cũ và 0,58 gam chất bột màu trắng, có thành phần hê rô in. Tuyên tịch thu hủy.

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 BLTTHS, Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Bị cáo Tòng Văn H phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định chung của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2017/HSST ngày 22/05/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:42/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về