Bản án 418/2019/HNGĐ-ST ngày 27/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP - TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 418/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 175/2019/TLST-HNGĐ, ngày 10 tháng 4 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2019/QĐXXST-HN, ngày 30 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2019/QĐST-HN, ngày 19 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Lê Thị T, sinh năm 1990.

Đa chỉ: p 1, xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

Chỗ ở hiện nay: ấp L, xã T, huyện T, tỉnh Hậu Giang.

2.Bị đơn: Nguyễn Ngọc V, sinh năm 1976.

Đa chỉ: p 1, xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn Lê Thị T (sau đây gọi chị T) trình bày: giữa chị và bị đơn Nguyễn Ngọc V (sau đây gọi anh V) qua tìm hiểu nhau mà tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân, đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh V hay ghen tuông vô cớ, thường xuyên đánh đập chị, từ đó vợ chồng luôn cãi vã nhau, đã nhiều lần hoà giải hàn gắn tình cảm nhưng không thành nên đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh V.

-Về con chung: có hai người con chung tên Nguyễn Thị Ngọc H (nữ), sinh ngày 24 tháng 7 năm 2008 và cháu Nguyễn Ngọc T (nam), sinh ngày 20 tháng 9 năm 2012 từ khi ly thân đến nay hai con chung, sống với anh V, nay ly hôn con có nguyện vọng sống với ai thì người đó nuôi, người còn lại chưa phải cấp dưỡng.

-Về nợ và tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn Nguyễn Ngọc V vắng mặt nên không có lời trình bày;

Tại biên bản lấy lời khai ngày 22.5.2019, cháu Nguyễn Thị Ngọc Htrình bày (có sự chứng kiến của chị T): khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với cha.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 23.9.2019, cháu Nguyễn Ngọc T trình bày (có sự chứng kiến của bà Nguyễn Ngọc K): khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với cha.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng, Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; giao con chung cho bị đơn nuôi dưỡng; nguyên đơn chưa phải cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: anh Nguyễn Ngọc V được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với anh V.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: chị T và anh V qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 09 tháng 02 năm 2017 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T, Hội đồng xét xử xét thấy: chị và anh V trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị T trình bày do anh V ghen tuông vô cớ và thường xuyên đánh đập chị nhưng vợ chồng không có giải pháp khắc phục để hoà giải hàn gắn tình cảm mà đã sống ly thân từ năm 2017; xét thấy thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tạo điều kiện để anh, chị được hòa giải đoàn tụ nhưng anh V không có mặt, điều đó chứng minh, anh V cũng không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này. Đồng thời tại phiên tòa hôm nay, chị T xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh V và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa anh, chị đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

[5] Về con chung: anh, chị có hai người con chung, không ai tranh chấp về quyền nuôi con, xét hai người con chung được sống với anh V từ khi ly thân đến nay, nguyện vọng của cả hai cháu đều được sống với anh V, nhằm tránh gây xáo trộn đời sống của các cháu, cần tiếp tục giao cả hai người con chung cho anh V nuôi dưỡng là phù hợp và nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị T, anh V có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: anh V vắng mặt, chưa có yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho chị T mà không ai có quyền cản trở.

[7] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: chị T phải nộp theo quy định pháp luật.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có căn cứ chấp nhận. Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Ngọc V.

2. Về nuôi con chung: giao hai cháu Nguyễn Thị Ngọc H (nữ), sinh ngày 24 tháng 7 năm 2008 và cháu Nguyễn Ngọc T (nam), sinh ngày 20 tháng 9 năm 2012 cho anh Nguyễn Ngọc V được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu H, cháu Ti đủ 18 tuổi hoặc khi anh V, chị T có yêu cầu khác.

Chị Lê Thị T chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục các con chung cho chị T mà không ai có quyền cản trở.

3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Lê Thị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0020642, ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không ai phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 418/2019/HNGĐ-ST ngày 27/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:418/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về