Bản án 413/2019/HNGĐ-ST ngày 23/10/2019 về xin ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 413/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 23 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2019, về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 101/2019/QĐST- HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lan P, sinh năm xxxx (có mặt)

Địa chỉ: ấp P, xã L, huyện C, tỉnh Long An

2. Bị đơn: Anh Trần Ngọc P, sinh năm xxxx (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện G, Tiền Giang

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V

Địa chỉ: Tầng N, Tòa nhà M, số D, Phường N, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

2/. Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam) (vắng mặt)

Địa chỉ: số N, phường B, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh

Đại diện theo pháp luật: Ông LEE YUN H - Chức vụ: Tổng Giám đốc

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 957, B, C, M, G, Hàn Quốc

Chỗ ở hiện tại: M, P, Phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan P trình bày:

- Về hôn nhân: Năm 2012, chị và anh P quen biết, tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, giấy chứng nhận kết hôn số 60 ngày 26 tháng 4 năm 2012.

Sau khi cưới vợ chồng chung sống với gia đình chị, sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, do anh P không lo làm ăn để lo cho vợ con, chị đã trao đổi hàn gắn anh P vẫn không thay đổi. Từ đầu năm 2019, anh P bỏ về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay, Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh P.

- Về con chung: Có hai con chung tên Trần Nguyễn Minh K, sinh ngày xx tháng xx năm xxxx và Trần Nguyễn Thanh P, sinh ngày xx tháng xx năm xxxx hiện đang sống chung với chị. Ly hôn, chị P nên chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về nợ chung: Trong quá trình chung sống chị có vay của Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V số tiền 24.000.000 đồng và Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam) số tiền 25.000.000 đồng để vợ chồng sử dụng chung trong sinh hoạt hàng ngày. Trước khi nộp đơn ly hôn đến Tòa án chị đã trả xong các khoản nự nên chị yêu cầu anh P trả lại chị ½ số tiền nợ chung là 24.500.000 đồng Ngày 01/8/2019, chị P có đơn rút lại yêu cầu về chia nợ chung vì chị đã trả nợ xong

* Anh Trần Ngọc P đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng trong quá trình giải quyết vụ án nhưng anh vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản thể hiện ý kiến của mình

* Tại bản tự khai, trong quá trình xét xử, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam) do ông LEE YUN H đại diện trình bày:

Chị Nguyễn Thị Lan P có khoản vay tại Công ty theo hợp đồng tín dụng tiêu dùng số 435430 ký ngày 11/10/2018 đến ngày 06/6/2019, chị P đã tất toán nợ toàn bộ khoản vay nêu trên. Do đó, Công ty không còn quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án ly hôn giữa chị và anh P

*Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng trong quá trình giải quyết vụ án nhưng Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản thể hiện ý kiến của mình

* Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Đông:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Viện kiểm sát không có kiến nghị Về nội dung đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về chứng cứ và những tình tiết của vụ án:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Lan P khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trần Ngọc P là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Anh Trần Ngọc P, Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V đã được Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (lần 1, lần 2); Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập nhưng Trần Ngọc P, Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V vẫn vắng mặt không có lý do; Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam) vắng mặt vì không có liên quan đến vụ án nên căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh P, Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V và Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam)

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Lan P và anh Trần Ngọc P tự nguyện tìm hiểu và chung sống được Uỷ ban nhân dân xã T, huyện G cấp giấy chứng kết hôn số 60 ngày 26 tháng 4 năm 2012 là hôn nhân hợp pháp. Thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do anh P không lo làm ăn lo cho vợ con, chị đã trao đổi hàn gắng nhiều lần nhưng anh không thay đổi và từ đầu năm 2019, anh chị không còn chung sống với nhau đến nay. Nay tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trần Ngọc P

- Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Lan P và anh Trần Ngọc P không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, anh P không còn quan tâm đến cuộc sống hôn nhân của mình, không có biện pháp để hàn gắn tình cảm và từ năm 2011 đến nay vợ chồng anh chị không còn chung sống với nhau nên Hội đồng xét xử thấy tình trạng hôn nhân của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị P xin ly hôn là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

- Trong quá trình giải quyết vụ án anh P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng để tham dự phiên tòa và có ý kiến về việc chị P xin ly hôn nhưng anh không đến Tòa để trình bày ý kiến mà để mặc cho mâu thuẫn kéo dài, không phản đối những nội dung mâu thuẫn mà chị P đưa ra nên lời trình bày của chị P là có cơ sở phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận

[2.2] Về con chung: Chị P khai vợ chồng có hai con chung tên Trần Nguyễn Minh K sinh ngày xx tháng xx năm xxxx và Trần Nguyễn Thanh P, sinh ngày xx tháng xx năm xxxx hiện đang sống chung với chị. Ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của chị P về người trực tiếp nuôi là phù hợp với điều kiện hiện nay của các con và quy định tại các điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận Anh P chưa phải cấp dưỡng nuôi con do chị P chưa có yêu cầu [2.3] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết

[2.4] Về nợ chung: Trong quá trình chung sống chị có vay của Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V số tiền 24.000.000 đồng và Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam) số tiền 25.000.000 đồng để vợ chồng sử dụng chung trong sinh hoạt hàng ngày, chị đã trả nợ xong nên yêu cầu anh P trả lại chị ½ số tiền nợ chung là 24.500.000 đồng Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam) xác nhận chị P có vay của Công ty số tiền 25.000.000 đồng và ngày 06/6/2019 chị P đã tất toán nợ toàn bộ khoản vay nên Công ty tài chính TNHH MTV M (Việt Nam) không có ý kiến, yêu cầu gì trong vụ án Ngày 01/8/2019, chị P có đơn rút lại yêu cầu về chia nợ chung vì chị đã trả nợ xong nên cần đình chỉ yêu cầu về chia nợ chung của chị P Đối với số tiền vay 24.000.000 đồng của Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V. Tòa án đã triệu tập để Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V có ý kiến trong vụ án ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Lan P và anh Trần Ngọc P nhưng Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng V không có văn bản thể hiện ý kiến của mình. Nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Chị P nộp án phí ly hôn theo quy định Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Lan P và anh Trần Ngọc P

2. Về con chung: Giao con chung Trần Nguyễn Minh K sinh ngày xx tháng xx năm xxxx và Trần Nguyễn Thanh P, sinh ngày xx tháng xx năm xxxx cho chị Nguyễn Thị Lan P được tiếp tục nuôi dưỡng

- Anh P được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản

- Vì lợi ích của con, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi

3. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết

4. Về nợ chung: Đình chỉ yêu cầu của chị Nguyễn Thị Lan P yêu cầu anh Trần Ngọc P trả số tiền 24.500.000 đồng.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lan P nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 912.500 đồng (Chín trăm mười hai nghìn năm trăm đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 46852 ngày 10 tháng 6 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang nên chị P được hoàn lại số tiền là 612.500 đồng (Sáu trăm mười hai nghìn năm trăm đồng).

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 413/2019/HNGĐ-ST ngày 23/10/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:413/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Đông - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về