Bản án 413/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 413/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1222/2018/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 5 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 341/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 700/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12/10/2018 giữa các đương sự.

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thiên T- Sinh năm: 1994

Địa chỉ thường trú: 182, khu phố T, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ tạm trú: 65/21 khu phố T, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Đặng Quang V- Sinh năm: 1994

Địa chỉ thường trú: 49B, khu phố 4, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà T có đơn xin xét xử vắng mặt, ông V vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - nguyên đơn bà Trần Thị Thiên T trình bày: Bà và ông V tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, nhưng sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà và ông V bất đồng quan điểm sống, vợ chồng tính tình không hợp nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông V, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông V.

Về con chung: Có 01 con chung tên Đặng Trần Tố N, sinh ngày 30/12/2016. Ly hôn bà xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận. Về nợ chung: Không có.

Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, nên đề nghị tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Trong vụ án này, các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý của đương sự, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà T. Về con chung: Đề nghị giao cháu N cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Tạm thời ông V không cấp dưỡng nuôi con chung. Theo bà T trình bày về tài sản chung để bà T, ông V tự thỏa thuận, nợ chung là không có. Do ông V không có bản tự khai cũng như không có ý kiến gì về tài sản chung, nợ chung, nên đề nghị tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa đã cấp tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả về phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định nhưng ông V vẫn vắng mặt không lý do, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông V, bà T theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà T, ông V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

[3] Bà T, ông V sau khi kết hôn chung sống với nhau hạnh phúc một thời gian, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà T trình bày do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng tính tình không hợp nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông V, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn. Tòa án đã nhiều lần thông báo về phiên hòa giải để tạo điều kiện hòa giải cho bà T, ông V hàn gắn đoàn tụ, nhưng ông V vắng mặt không có lý do, còn bà T vẫn cương quyết xin ly hôn, cho thấy mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng. Hiện bà T xác định không còn tình cảm với ông V. Xét thấy, mục đích hôn nhân không đạt được, việc bà T xin ly hôn với ông V là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Về con chung: Bà T, ông V có 01 con chung Đặng Trần Tố N, sinh ngày 30/12/2016. Ly hôn bà T xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, hiện nay cháu N chưa tròn 3 tuổi và đang ở với mẹ. Do đó tiếp tục giao cháu N cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành để tạo điều kiện ổn định về mọi mặt cho cháu. Tạm thời ông V không cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Theo bà T trình bày về tài sản chung để bà T, ông V tự thỏa thuận, nợ chung là không có. Do ông V không có bản tự khai cũng như không có ý kiến gì về tài sản chung, nợ chung, nên tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi có đương sự có yêu cầu.

[6]Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bà T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm bà T đã nộp tại Biên lai số 007416 ngày 18/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa. Bà T đã nộp đủ án phí.

[7] Nhận định của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 203; Điều 220; khỏan 1 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 56; Điều 81; Điều 82, Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trần Thị Thiên T và ông Đặng Quang V.

Về nuôi con chung: Giao con chung tên Đặng Trần Tố N, sinh ngày 30/12/2016 cho bà Trần Thị Thiên T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời ông V không cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông V được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí sơ thẩm bà T đã nộp tại Biên lai số 007416 ngày 18/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa. Bà T đã nộp đủ án phí.

Bà T, ông V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 413/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:413/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về