Bản án 41/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 41/2020/HS-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2020, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 04/2020/HSST- QĐ ngày 28/7/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh P; sinh năm 1993 tại Kiên Giang; Nơi cư trú: Khu phố M, thị trấn M, huyện C, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn V, sinh năm 1963 và bà Trần T; sinh năm 1963; Vợ tên Phạm Th, sinh năm 1991 và có 01 người con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt giữ, tạm giam từ ngày 21/02/2020 Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Ông Phạm Quốc V; sinh năm 1953 Trú tại: Số 228 ấp T, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang. Ông V vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh P là đối tượng nghiện ma túy, vào khoảng 13 giờ, ngày 21 tháng 02 năm 2020 P đang ở nhà thì có đối tượng tên S (chưa xác định được nhân thân lai lịch) là bạn của P điện thoại đến hỏi P có mua ma túy sử dụng không. Do không có tiền nên P nhờ S mua giùm ma túy để P sử dụng thì S đồng ý. S kêu P đi đến ngã ba cây xăng N thuộc ấp S, xã V để gặp S. Khoảng 01 giờ sau P điều khiển xe môtô của P đi đến gặp S rồi cả hai cùng đi đến quán cà phê thuộc ấp T, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang để lấy ma túy.

Khi đến quán P và S vào trong ngồi uống cà phê được một lúc thì có một người thanh niên (chưa xác định được tên cũng như nhân thân lai lịch) đến nói chuyện với S nhưng nói gì thì P không biết. Sau đó S bỏ đi còn người thanh niên này ném cho P một bịch nylon được hàn kín và nói “ma túy đá đó xem đi” rồi người này bỏ đi. P lấy bịch ma túy trên lên xem thì thấy đúng là ma túy nên cất giấu vào bên trong lớp vải của mũ bảo hiểm của P mục đích để tàng trữ sử dụng rồi tiếp tục ngồi uống cà phê đợi S. Đến 15 giờ 15 phút cùng ngày P bị Đoàn Đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 4, Bộ Tư lệnh cảnh sát biển phối hợp với Công an xã G, huyện C kiểm tra phát hiện trong lớp vải nón bảo hiểm của P có một bịch nylon màu trắng, có rãnh gài, một cạnh viền màu xanh kích thước 2,5 cm x 2,7cm bên trong có các hạt tinh thể trong suốt, dạng rắn, không đồng nhất nghi là chất ma túy. Lực lượng chức năng khi bắt quả tang đã thu giữ tang vật trên và tiến hành niêm phong theo đúng quy định, ngoài ra không thu giữ gì thêm.

Sau khi bắt quả tang P về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, lực lượng chức năng đã đưa P về Công an xã G, huyện C để làm việc, tại đây P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận giám định số: 168/KL-KTHS ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất, màu trắng chứa trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,5166 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Về tình tiết tăng nặng: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ: Nhận thấy trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nhân thân bị cáo tốt không có tiền án, tiền sự; lần phạm tội này là lần phạm tội đầu tiên của bị cáo.

Đồ vật, tài liệu thu giữ, tạm giữ, hướng xử lý vật chứng gồm: 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, niêm phong mẫu vật, vụ số 168/2020, ngày 25 tháng 02 năm 2020, người chứng kiến Phạm Viết Q, giám định viên Lê Đức H, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang. Đây là vật chứng còn lại sau giám định và 01 nón bảo hiểm màu đen, phía sau có ghi chữ nón sơn.

Tại bản cáo trạng số: 40/CT-VKS-CT ngày 08/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thanh P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, niêm phong mẫu vật, vụ số: 168/2020 ngày 25 tháng 02 năm 2020 và 01 nón bảo hiểm màu đen, phía sau có ghi chữ nón sơn.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.

Bị cáo được nói lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ qua n tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu cũng như kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành. Từ đó, có đủ cơ sở để kết luận: Nguyễn Thanh P là đối tượng nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng P nhờ đối tượng tên S mua dùm 01 bịt ma túy thì Sơn đồng ý. Đến khoảng 15 giờ 15 phút, ngày 21/02/2020 khi S và P đang uống cà phê tại ấp Tân Đ, xã G, huyện C, tỉnh Kiên Giang thì có 01 người thanh niên (không xác định được họ tên, địa chỉ) đưa cho P 01 bịt ma túy, P liền cất giấu số ma túy trên vào trong lớp vải của nón bảo hiểm, sau đó tiếp tục ngồi tại quán cà phê trên thì bị Công an kiểm tra phát hiện và bắt quả tang P đang tàng trữ 0,5166 gam ma túy loại Methamphetamine. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, HĐXX xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình theo quy định của pháp luật, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả. Do đó, HĐXX xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân bị cáo tốt không có tiền án, tiền sự. Do đó, HĐXX xét thấy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[6] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.

[7] Về đánh giá vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, niêm phong mẫu vật, vụ số 168/2020, ngày 25 tháng 02 năm 2020 đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần xử tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với 01 nón bảo hiểm màu đen, phía sau có ghi chữ nón sơn đến nay không còn giá trị sử dụng nên cần xử tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[8] Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P 01 (một) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 21/02/2020.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì màu trắng có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, niêm phong mẫu vật, vụ số 168/2020, ngày 25 tháng 02 năm 2020, người chứng kiến Phạm Viết Q, giám định viên Lê Đức H, có đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Kiên Giang và 01 nón bảo hiểm màu đen, phía sau có ghi chữ nón sơn. Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 23/QĐ-VKS-CT ngày 08/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiên Giang.

Về áp phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thanh P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về