Bản án 41/2020/HS-PT ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 41/2020/HS-PT NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 522/2019/HSPT ngày 02 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Trần Công M do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trn Công M; Sinh năm 1985 tại tỉnh ĐT; Nghề nghiệp: không; Nơi thường trú: Ấp PT, xã PL, huyện CH, tỉnh ĐT; trình độ văn hóa: 08/12; Con ông: Trần Văn T (chết) và bà: Lê Thị Bích T; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; tiền án: Ngày 11/3/2015, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 160/2015/HSPT và ngày 22/01/2018, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 27/2018/HSPT (chấp hành xong ngày 04/11/2018), tiền sự: Không;

Tm giam ngày 09/5/2019 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ ngày 24/4/2019, bị cáo Trần Công M đã có hành vi lén lút lấy trộm hai điện thoại Oppo A3S của anh Nguyễn Hồng BT(cùng là nhân viên bảo vệ của cơ sở kinh doanh Nhất Lộ Gia) khi anh Th đang ngủ say tại khu vực cổng của cơ sở này rồi mở cổng công ty đi đến khu vực đường BL, quận TP bán cho một cửa hàng điện thoại di động (không nhớ rõ địa điểm) với số tiền 2.800.000 đồng. Sau đó Minh đã tiêu hết số tiền trên. Đến ngày 08/5/2019, Minh bị bạn của anh Th phát hiện bắt giữ và giao Cơ quan Công an xử lý. Tại Cơ quan điều tra Công an huyện HM, M đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 160/2019/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân Huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Công M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Công M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng và thời hạn kháng cáo.

Ngày 25/10/2019, bị cáo M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là quá nặng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Công M khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản án sơ thẩm ghi nhận và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do cần tiền tiêu xài nên bị cáo M đã lợi dụng sở hở của bị hại anh Nguyễn Hồng BT để lén lút trộm lấy hai chiếc điện thoại Oppo A3S của anh Th rồi mang đi bán tiêu xài hết. Theo Kết luận định giá tài sản số 106/2019 ngày 16/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện HM kết luận: 02 điện thoại Oppo A3S có trị giá là 6.000.000 đồng. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo Trần Công M về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương do đó án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo với mức án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp.

[2] Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định là hợp lệ.

2 [3]Các tình tiết giảm nhẹ: cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi để áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy tại mục [4.1] phần “Nhận định” của Bản án mà cấp sơ thẩm đã tuyên có ghi nhận không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nhưng tại phần Quyết định của Bản án này lại tuyên áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo M. Mặt khác, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo M đã bị áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là tình tiết định khung hình phạt do vậy không thể áp dụng thêm tình tiết này là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo như cấp sơ thẩm đã tuyên.

[4] Xét kháng cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không có tình tiết nào mới để xem xét giảm mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên. Đồng thời, bản thân bị cáo M đã có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng lại không tu dưỡng đạo đức, sửa đổi bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội tương tự, thể hiện thái độ coi thường pháp luật ở bị cáo. Lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với bị cáo.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Công M. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Công M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3 Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2020/HS-PT ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về