Bản án 41/2019/HS-ST ngày 05/07/2019 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 41/2019/HS-ST NGÀY 05/07/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 04 và 05 tháng 07 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 05 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXHS-ST ngày 05 tháng 06 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm 1982 tại Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: đường Y, khóm H, phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1958 và bà: Nguyễn Thị Minh N, sinh năm 1958; Anh chị em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất là bị cáo; Vợ: Vương Thị Thanh Th, sinh năm 1985; Con: có 01 người sinh năm 2005; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Về nhân thân: bị cáo 01 tiền án: Vào năm 2006, bị cáo bị kết án 05 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, đến ngày 17-01- 2009 được đặc xá, đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16-01-2019 đến ngày 25-01-2019 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Kim P, sinh năm 1990; Cư trú: xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

2. Nguyễn Như K, sinh năm 1977; Cư trú: xã C, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

3. Lê Văn C, sinh năm1968; Cư trú: Ấp K, xã H, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

4. Lê Văn D, sinh năm 1974; Cư trú: Ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

5. Nguyễn Tiến G, sinh năm 1978; Cư trú: Khu dân cư, khóm B, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

6. Nguyễn P, sinh năm 1975; Cư trú: Ấp T, xã Th, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

7. Lý Huy C, sinh năm 1989; Cư trú: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

8. Trương Nhật M, sinh năm 1994; Cư trú: Ấp P, xã Ph, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

9. Phạm Hồng H, sinh năm 1983; Cư trú: đường L, khóm B, phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

10. Giang Phi H, sinh năm 1990; Cư trú: đường B, khóm X, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt) 

11. Võ Văn B, sinh năm 1969; Cư trú: ấp C, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

12. Nguyễn Thùy T, sinh năm 1988; Cư trú: đường Q, khóm H, phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

13. Nguyễn Hoài Th, sinh năm 1991; Cư trú: đường T, khóm C, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

14. Châu Hòa D, sinh năm 1976; Cư trú: đường V, khóm C, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

15. Đoàn Văn M, sinh năm 1983; Cư trú: đường Đ, khóm N, phường B, thành phố S (vắng mặt)

16. Nguyễn Quốc T, sinh năm 1990; Cư trú: đường D, khóm T, phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

17. La Đình C, sinh năm 1974; Cư trú: đường P, khóm H, thị trấn C, thị xã B, tỉnh Vĩnh Long (vắng mặt)

18. Trương Văn N, sinh năm 1977; Cư trú: đường H, khóm M, phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

19. Đặng Văn Út Ch, sinh năm 1971; Cư trú: ấp K, xã K, huyện KS, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

20. Võ Văn H, sinh năm 1975; Cư trú: Ấp H, xã C, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

21. Nguyễn Văn T, sinh năm 1986; Thường trú: ấp T, xã T, huyện P, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)

22. Trần Hồng A, sinh năm 1967; Cư trú: đường M, khóm B, phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

- Người làm chứng:

1. Trần Phước T, sinh năm 1983; Cư trú: đường M, khóm H, phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

2. Trần Phước Ngh, sinh năm 1983; Cư trú: đường M, khóm X, phường C, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

3. Thạch T, sinh năm 1990; Cư trú: Ấp Ph, xã P, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

4. Lê Đức H, sinh năm 1974; Cư trú: đường H, khóm M, phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

5. Đoàn Thanh H, sinh năm 1997; Cư trú: đường Đ, khóm B, phường X, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

6. Trần Bé M, sinh năm 1969; Cư trú: đường K, khóm B, phường T, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16-01-2019, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại ngôi nhà số đường K, khóm B, phường T, thành phố S có nhiều người tụ tập tham gia đánh bạc với hình thức đá gà ăn tiền, Công an tỉnh Sóc Trăng đã tiến hành kiểm tra và bắt quả tang Nguyễn Minh T đang tổ chức cho nhiều người đá gà ăn tiền tại khu vực sân sau của ngôi nhà thì một số người bỏ chạy nên đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và 25 người khác đang có mặt tại sân đá gà gồm: Kim P, Nguyễn Như K, Lê Văn C, Lê Văn D, Nguyễn Tiến G, Giang Phi H, Phạm Hồng H, Nguyễn P, Đặng Văn Út C, Trương Văn N, La Đình C, Châu Hòa D, Nguyễn Thùy T, Trương Nhật M, Lý Huy Ch, Đoàn Văn M, Huỳnh Văn M, Nguyễn Văn T, Trần Hồng A, Trần Phước T, Trần Phước N, Thạch T, Trương Hồ N, Lê Đức H và Đoàn Thanh H, qua đó đã thu giữ tang vật gồm: 3.800.000 đồng bỏ lại tại hiện trường, 82.220.000 đồng thu trên người những người bị bắt giữ, 09 con gà đá và các dụng cụ phục vụ cho việc tổ chức đá gà như sổ ghi chép, cân, cựa sắt, băng keo, giỏ đệm và bội sắt đựng gà rồi bàn giao lại cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Sóc Trăng thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Minh T khai nhận: bản thân do không có nghề nghiệp ổn định nên đã nảy sinh ý định tổ chức cho người khác đá gà ăn thua bằng tiền để hưởng lợi. Để thực hiện ý định của mình, bắt đầu từ tháng 12 năm 2018 T thuê lại ngôi nhà đường K, khóm B, phường T, thành phố Sóc Trăng của ông Trần Bé M để làm nơi tổ chức đá gà và chuẩn bị các công cụ, phương tiện phục vụ cho việc tổ chức đá gà như: cân, cựa sắt, băng keo quấn cựa gà, bội gà, tấm nhựa chắn gà. Cách thức tổ chức của T là khi có người có gà muốn đá thì sẽ liên lạc qua số điện thoại 0909.566.656 gắn trong điện thoại di động hiệu Iphone 8 của T, T sẽ tìm những người khác có gà trọng lượng tương đương để ráp cặp đá và hẹn những người này đem gà đến địa điểm nơi T tổ chức hoặc những người có gà muốn đá sẽ tự đem lại chỗ T, nếu có gà trọng lượng tương đương thì ráp cặp đá tại chỗ không hẹn trước, đồng thời T sẽ thông báo cho những người khác biết có tổ chức đá gà để đến cá độ đá gà. Sau khi chủ gà đem gà đến thì T tiến hành cân gà, đưa băng keo và cựa sắt cho chủ gà (hoặc người ôm gà cho chủ gà) để quấn cựa cho gà và bắt đầu nhận cá cược của người chơi. Những người chơi cược bao nhiêu và cho gà nào thì T ghi lại thông tin vào sổ tay cá nhân, khi tiền cược hai bên cân bằng nhau thì mới tiến hành cho gà đá và T sẽ là trọng tài phân định thắng thua của mỗi trận, sau khi trận đấu kết thúc T sẽ trực tiếp thu tiền bên thua và chung lại cho những người thắng cược. Đối với mỗi trận gà T hưởng lợi bằng cách thu 10% trên tiền xổ gà (tức là tiền cược của 02 chủ gà với nhau) và thu 2% trên số tiền thắng được đối với những người tham gia cá cược khác (còn gọi là “đá hàng sáo”). Đối với những người tự cá cược riêng với nhau không thông qua T sau khi bắt đầu đá (hình thức cược này gọi là “đá tang”) thì T không biết và không quản lý việc cá cược này. T tổ chức đá gà như trên được khoảng 01 tháng, cách khoảng 03-04 ngày tổ chức một lần, được tổng cộng khoảng 07-08 lần thì bị bắt, số tiền cược và người chơi từng lần T không còn nhớ và không ghi chép lại nhưng thừa nhận tổng số tiền hưởng lợi bất chính từ khi tổ chức đến khi bị bắt là khoảng hơn 6.000.000 đồng. Đối với việc tổ chức đá gà như trên thì T không có chuẩn bị người canh đường, không lắp đặt camera giám sát hay sắp đặt lối thoát và không cho vay, nhận cầm cố tài sản cho người chơi lấy tiền cá cược. 

T thừa nhận vào ngày bắt quả tang 16-01-2019 đã tổ chức cho nhiều người tham gia đá gà ăn thua bằng tiền được 02 trận như sau:

- Trận thứ nhất: Giữa gà màu vàng của một người tên Giang (T không rõ họ tên, chỉ nghe nói nhà ở Kế Sách) và gà màu xanh của một người T không biết họ tên, địa chỉ, tiền xổ cược giữa hai chủ gà là 2.000.000 đồng. Trận gà này đá đồng tiền và có những người tham gia cá cược thông qua T được T ghi lại trong sổ gồm:

+ 06 người cược gà xanh thắng với tổng tiền cược là 36.000.000 đồng gồm: người đàn ông làm nghề trồng lúa (không rõ họ tên, địa chỉ) T ghi trong sổ là “Lúa” cược 1.000.000 đồng; chủ gà xanh (T không rõ họ tên, địa chỉ) cược 6.000.000 đồng; Kim P (T ghi trong sổ tên Pha thành “Khoa”) cược 2.000.000 đồng; Nguyễn Như K (T ghi trong sổ là “Phát”) cược 2.000.000 đồng; người tên thường gọi “Tèo” (T không rõ họ tên, địa chỉ) cược 2.000.000 đồng; người tên “Khoa” (T không biết họ tên chỉ nghe nói ở Tân Thạnh) cược 23.000.000 đồng.

+ 10 người cược gà vàng thắng với tổng tiền cược là 36.000.000 đồng gồm: chủ gà vàng tên Giang (T chỉ biết nhà ở Kế Sách) cược 13.000.000 đồng; Lê Văn Ch cược 3.000.000 đồng (thực tế Ch cược 2.000.000 đồng còn lại 01 người lạ mặt đứng gần Ch cược 1.000.000 đồng nên T ghi luôn tên Ch trong sổ để nhớ); Lê Văn D cược 2.000.000 đồng; người mặc áo thun T ghi “Thun” trong sổ cược 1.000.000 đồng; Nguyễn Tiến G cược 5.000.000 đồng (thực tế ông Gi chỉ cược 2.000.000 đồng, còn lại là Giang Phi H cược 1.000.000 đồng và Phạm Hồng Hi cược 2.000.000 đồng, do 03 người đứng gần nhau và T không nhớ tên của H và Hi nên T tự ghi chung cho ông Gi cược 5.000.000 đồng trong sổ); người tên Gi (T không biết họ tên chỉ nghe nói đi làm ở thành phố Hồ Chí Minh) cược 10.000.000 đồng; Nguyễn Ph cược 2.000.000 đồng.

Tổng số tiền cược trận này của 16 người chơi như trên là 76.000.000 đồng (gồm tiền đá xổ của 02 chủ gà là 4.000.000 đồng và tiền cược “hàng sáo” là 36.000.000 đồng mỗi bên). Kết quả gà xanh thắng, T thu được tiền xâu là 920.000 đồng sau khi chung tiền cho những người thắng cược.

- Trận thứ hai: Giữa gà màu khét vàng của Trương Văn N (ông N không thừa nhận là chủ gà mà chỉ là người ôm gà xổ đá dùm) và gà màu xanh của người tên K (T không rõ họ tên, chỉ biết nhà ở Tân Thạnh), tiền xổ cược giữa hai chủ gà là 2.000.000 đồng. Trận này gà xanh kèo trên nên ai cược gà xanh nếu thắng chỉ nhận được 80% tiền cược (còn gọi là ăn 8) trở xuống và có những người tham gia cá cược thông qua T được T ghi vào sổ gồm:

+ 08 người cược gà khét vàng thắng với tổng số tiền cược là 26.000.000 đồng gồm: Trương Văn N cược 2.000.000 đồng (thua 8); người mặc áo thun T không biết tên nên ghi “Thun” trong sổ cược 2.000.000 đồng (thua 8); người tên “A3” T không rõ họ tên, địa chỉ cược 5.000.000 đồng (thua 7,5) và 5.000.000 đồng (thua 7); Đặng Văn Út C cược 2.000.000 đồng (thua 7); Võ Văn H cược 3.000.000 đồng (thua 7) (thực tế H cược 2.000.000 đồng nhưng do có một người T không biết tên đứng gần H cược 1.000.000 đồng cũng cược thua 7 nên T ghi chung tên H trong sổ để nhớ); Nguyễn Như K (T ghi trong sổ là “Phát”) cược 2.000.000 đồng (thua 7); người tên “Nhiên” T không rõ họ tên, địa chỉ cược 5.000.000 đồng (thua 7).

+ 02 người cược gà xanh thắng với tổng số tiền cược là 24.000.000 đồng gồm: người T thường gọi là “Hia” không rõ họ tên, địa chỉ cược 2.000.000 đồng (ăn 8); chủ gà tên K (T không rõ họ tên, chỉ biết nhà ở Tân Thạnh) cược 22.000.000 đồng (gồm cược ăn 8 là 2.000.000 đồng, cược ăn 7,5 là 5.000.000 đồng và cược ăn 7 là 15.000.000 đồng).

Tổng số tiền cược trận này của 10 người chơi như trên là 54.000.000 đồng (gồm tiền đá xổ của 02 chủ gà 4.000.000 đồng và tiền cược hàng sáo đối với gà màu xanh là 24.000.000 đồng, gà màu khét vàng là 26.000.000 đồng). Do số tiền cược 2 bên chưa đồng đều nên T chưa bắt đầu cho thả gà đá mà đang kêu các người chơi cược thêm cho đồng tiền thì bị bắt quả tang nên trận này T chưa thu được tiền xâu.

Như vậy, trong ngày 16-01-2019 T đã tổ chức 02 trận đá gà ăn thua bằng tiền cho nhiều người chơi như trên với tổng số tiền đánh bạc của cả 02 trận đá gà là 130.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 36/CT-VKS.TPST ngày 15 tháng 5 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội: “Tổ chức đánh bạc”, theo quy định tại điểm a,c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại tòa, bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố đúng với hành vi bị cáo thực hiện, do bị cáo lười lao động muốn có tiều tiêu xài, bị cáo chịu hình phạt là xứng đáng, nhưng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về chăm lo cho gia đình.

Tại toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội: “Tổ chức đánh bạc”; đề nghị: Áp dụng điểm a, c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 2, 3 Điều 35; Điều 38 của Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền từ 20.000.000đồng đến 25.000.000đồng;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 cuốn sổ tay hiệu Notebook; 05 cặp cựa gà; 10 giỏ đệm; 145 cuộn băng keo; 04 bội nhốt gà; 01 miếng nhựa kích thước 50x60cm là các công cụ dùng để tổ chức đá gà của bị cáo không còn giá trị sử dụng.

+ Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 bên trong có gắn sim số 0909.566.656; 01 cân đồng hồ loại 5kg là công cụ dùng phạm tội của bị cáo T; Tiền Việt Nam: 27.660.000 đồng (gồm: của T 6.920.000 đồng tiền đã thu lợi bất chính; 3.800.000 đồng trên sân đá gà và số tiền các người chơi dùng để đánh bạc tại sòng gà do T tổ chức gồm: của Võ Văn H 2.200.000 đồng, của Nguyễn Như K 3.000.000 đồng, của Lê Văn D 270.000 đồng, của Trương Văn N 2.500.000 đồng, của Nguyễn Hoài Th 550.000 đồng, của Nguyễn Thùy T 3.040.000 đồng, của Võ Văn B 2.900.000 đồng, của Đoàn Văn M 50.000 đồng, của Nguyễn Văn T 2.430.000 đồng).

+ Trả lại cho bị cáo T tiền Việt Nam là 30.270.000 đồng do không phải là tiền phạm tội mà có và không sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc (tiếp tục tạm giữ để bảo quản thi hành án); trả lại cho người liên quan Ngh 1.000.000 đồng do không dùng vào việc đánh bạc; trả lại Nguyễn Tiến Gi 210.000 đồng do không sử dụng vào việc đánh bạc; trả lại Giang Phi H 2.200.000 đồng do không sử dụng vào việc đánh bạc.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Đối với việc vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng đã có lời khai làm rõ trong hồ sơ vụ án, không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ vào Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người này.

[3]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh T khai nhận: Bị cáo vì muốn có tiền phục vụ cho nhu cầu cá nhân nên từ khoảng tháng 12 năm 2018, bị cáo đã thuê nhà số 34A đường Kênh Thị Đội, khóm 3, phường 8, thành phố Sóc Trăng của ông Trần Bé Minh để tổ chức cho người khác đánh bạc ăn thua bằng tiền với hình thức đá gà. Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16-01-2019, bị cáo đã tổ chức hai trận:

Trận thứ nhất: Bị cáo tổ chức cho 16 người cá cược ăn thua bằng tiền với tổng số tiền cược của hai bên chủ gà và người chơi là 76.000.000 đồng, bị cáo thu lợi được là 920.000 đồng;

Trận thứ hai: Bị cáo tổ chức cho 10 người cá cược ăn thua bằng tiền với tổng số tiền cược của hai bên chủ gà và người chơi là 54.000.000 đồng, thì bị bắt quả tang.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Bị cáo tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; Tổng số tiền dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Từ hành vi và hậu quả bị cáo gây ra đã đủ yếu tố cấu thành tội, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật hình sự. Cho nên Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không oan cho bị cáo.

[4]. về hình phạt bổ sung: bị cáo có nghề nghiệp ổn định, có thu nhập nên căn cứ vào khoản 3 Điều 322 Bộ luật hình sự cần phạt bổ sung bị cáo 20.000.000 đồng.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, bị cáo đã tổ chức hai trận, mỗi trận đều đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nên là phạm tội hai lần. Đây là tình tiết tăng nặng được quy định theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6]. Về nhân thân bị cáo có 01 tiền án về tội Cố ý gây thương tích đã được xóa án tích.

[7]. Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền 3.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[8]. Xử lý vật chứng:

+ Đối với vật chứng là công cụ phạm tội không có giáy trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy: 01 cuốn sổ tay hiệu Notebook; 05 cặp cựa gà; 10 giỏ đệm; 145 cuộn băng keo; 04 bội nhốt gà; 01 miếng nhựa kích thước 50x60cm là các công cụ dùng để tổ chức đá gà của bị cáo không còn giá trị sử dụng.

+ Đối với vật chứng 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 bên trong có gắn sim số 0909.566.656; 01 cân đồng hồ loại 5kg là công cụ, phương tiện dùng phạm tội của bị cáo T; Số tiền dùng để đánh bạc: 27.660.000 đồng (gồm: của T 6.920.000 đồng tiền đã thu lợi bất chính; 3.800.000 đồng trên sân đá gà và số tiền các người chơi dùng để đánh bạc tại sòng gà do T tổ chức gồm: của Võ Văn H 2.200.000 đồng, của Nguyễn Như K 3.000.000 đồng, của Lê Văn D 270.000 đồng, của Trương Văn Ngh 2.500.000 đồng, của Nguyễn Hoài Th 550.000 đồng, của Nguyễn Thùy Tr 3.040.000 đồng, của Võ Văn B 2.900.000 đồng, của Đoàn Văn M 50.000 đồng, của Nguyễn Văn T 2.430.000 đồng) nên cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

+ Đối với tài sản không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho chủ sở hữu: Trả lại cho bị cáo T tiền Việt Nam là 30.270.000 đồng; Trả lại cho ông Trần Phước N 1.000.000 đồng; Trả lại cho Nguyễn Tiến Gi 210.000 đồng; Trả lại Giang Phi H 2.200.000 đồng

[9]. Đối với Đoàn Thanh H, Nguyễn Hoài Th được bị cáo cho vào bán nước suối và tự hưởng tiền bán nước suối, không có lợi ích gì từ việc bị cáo tổ chức đánh bạc nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10]. Đối với những người có tham gia đánh bạc gồm: Kim P, Nguyễn Như K, Võ Văn B, Lê Văn Ch, Lê Văn D, Nguyễn Tiến Gi, Phạm Hồng H, Giang Phi H, Nguyễn Ph, Trương Văn Ngh Đặng Văn Út Ch, Võ Văn H, La Đình C, Lý Huy C, Trương Nhật M, Đoàn Văn M, Nguyễn Quốc T, Châu Hòa D, Nguyễn Thùy Tr, Nguyễn Hoài Th, Nguyễn Văn T và Huỳnh Văn M tham gia đánh bạc có số tiền từng người đều dưới 5.000.000 đồng, chưa đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sóc Trăng xử phạt hành chính nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt chính và hình phạt bổ sung cần xử phạt ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a,c khoản 1, 3 Điều 322; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, b, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội: “Tổ chức đánh bạc”;

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bắt bị cáo thi hành án, nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 16-01-2019 đến ngày 25-01-2019;

Phạt bổ sung: phạt bị cáo 20.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.

3. Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 cuốn sổ tay hiệu Notebook; 05 cặp cựa gà; 10 giỏ đệm; 145 cuộn băng keo; 04 bội nhốt gà; 01 miếng nhựa kích thước 50x60cm là các công cụ dùng để tổ chức đá gà của bị cáo không còn giá trị sử dụng.

+ Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 bên trong có gắn sim số 0909.566.656; 01 cân đồng hồ loại 5kg; Tiền Việt Nam: 27.660.000 đồng

+ Trả lại cho bị cáo T tiền Việt Nam là 30.270.000 đồng;Trả lại cho ông Trần Phước Ng 1.000.000 đồng; Trả lại cho Nguyễn Tiến Gi 210.000 đồng; Trả lại Giang Phi H 2.200.000 đồng

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng);

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

404
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2019/HS-ST ngày 05/07/2019 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:41/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về