Bản án 41/2018/HS-ST ngày 31/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 41/2018/HS-ST NGÀY 31/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế C, sinh ngày 02 tháng 9 năm 1963 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Đường C, phường D, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường T, phường K, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị T và 01 con; tiền án: Tại Bản án số 166/HSST ngày 28/12/1994, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội "Chống người thi hành công vụ"; Bản án số 174/HSST ngày 25/11/1995, Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 02 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"; Bản án số 447/HSST ngày 28/9/1998, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 05 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"; Bản án số 155/HSST ngày 02/6/2004, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 08 năm tù về tội "Cướp tài sản tài sản và 04 năm tù về tội "Cưỡng đoạt tài sản", tổng hợp hình phạt cho 02 tội là 12 năm tù; Bản án số 1520/HSPT ngày 27/9/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 10 năm tù về tội "Cướp tài sản tài sản" và 04 năm tù về tội "Cưỡng đoạt tài sản", tổng hợp hình phạt cho 02 tội là 14 năm tù (đều chưa được xóa); tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 135/HSST ngày 08/10/1984, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 02 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản" (đã được xóa); Bản án số 97/HSST ngày 09/6/1987, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 02 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản" (đều đã được xóa); bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam ngày 17/02/2018; có mặt.

- Bị hại: Ông Vũ Đức P, sinh năm 1959. Nơi cư trú: Đường H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 29/6/2017, Nguyễn Thế C một mình đi đến khu vực trước cửa nhà số 279 đường Lạch Tray, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng để ăn đêm. Trong khi ăn, C phát hiện thấy bàn đối diện cách bàn C ngồi khoảng 01 mét có ông Vũ Đức P, sinh năm 1959; nơi cư trú: Đường H, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng cũng đang ngồi ăn và đặt điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, vỏ nhựa màu vàng lên bàn để nghe nhạc. Sau đó ông P đứng dậy đi ra xe máy lấy tài liệu rồi vào chỗ chủ quán để đọc, trong khi ông P vẫn để trên mặt bàn vừa ngồi. Thấy vậy, Nguyễn Thế C đứng dậy trả tiền, sau đó tiến lại bàn ông P, quan sát thấy ông P không để ý, Nguyễn Thế C dùng tay phải lấy điện thoại của ông P rồi lên xe bỏ chạy. Ông P phát hiện đuổi theo nhưng không kịp nên đã đến cơ quan công an trình báo sự việc.

Sau khi trộm cắp được điện thoại Nguyễn Thế C đã bán cho một cửa hàng mua bán điện thoại trên đường Lạch Tray (C không nhớ chính xác địa chỉ cụ thể) được 800.000 đồng, sau đó ăn tiêu hết.

Ngày 06/9/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Nguyễn Thế C, sau đó Nguyễn Thế C bỏ trốn khỏi địa phương và bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền ra quyết định truy nã. Ngày 16/02/2018, Nguyễn Thế C bị Công an phường Kênh Dương, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng bắt theo Quyết định truy nã số 19 ngày 27/10/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Tại bản Kết luận định giá số 53/KL-HĐ ngày 31/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Coolpad, vỏ nhựa màu vàng, màn hình cảm ứng 5,5 inchs, hệ điều hành Android, dung lượng bộ nhớ 8Gb, xuất sứ Trung Quốc. Đến thời điểm bị xâm hại tài sản có trị giá 3.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Do chiếc điện thoại di động Coolpad Nguyễn Thế C trộm cắp hiện không thu hồi được nên bị hại ông Vũ Đức P yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản theo kết luận định giá là 3.000.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo và bị hại không có ý kiến gì về trị giá tài sản bị chiếm đoạt theo bản kết luận định giá số 53/KL-HĐ ngày 31/7/2017.

Tại bản Cáo trạng số 35/CT-VKSNQ ngày 02/05/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế C về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Thế C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp với lời khai của bị hại ông Vũ Đức P, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị hại ông Vũ Đức P yêu cầu bị cáo phải bồi thường tài sản bị chiếm đoạt là chiếc điện thoại di động Coolpad theo kết luận định giá có trị giá 3.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng: Căn cứ điểm b Điều 2 Nghị Quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thực hiện những quy định có lợi cho người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: Nguyễn Thế C với mức án từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản"; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền do bị cáo không có thu nhập, không có tài sản riêng.

Về trách nhiệm dân sự: 01 điện thoại nhãn hiệu Coolpad, vỏ nhựa màu vàng, màn hình cảm ứng 5,5 inchs, hệ điều hành Android, dung lượng bộ nhớ 8Gb, xuất sứ Trung Quốc. Đến thời điểm bị xâm hại, tài sản có trị giá 3.000.000 đồng hiện không thu hồi được, bị hại ông Vũ Đức P yêu cầu bị cáo phải bồi thường theo kết luận định giá là 3.000.000 đồng, cần buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về pháp luật áp dụng:

[1] Xét thấy điều luật quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với tội "Trộm cắp tài sản" có mức hình phạt nhẹ hơn so với mức hình phạt quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Vì vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự 2015, Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để quyết định tội danh, hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thế C.

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên:

[2] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[3] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác được Cơ quan điều tra thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với sự thật khách quan, đủ cơ sở kết luận: Ngày 29/6/2017, Nguyễn Thế C một mình đi đến khu vực trước cửa nhà số 279 đường Lạch Tray, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng để ăn đêm. Trong khi ăn, C phát hiện thấy bàn đối diện cách bàn C ngồi khoảng 01 mét có 01 điện thoại di động, C đã có hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, lén lút nhằm chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, vỏ nhựa màu vàng, theo kết luận định giá có giá trị 3.000.000 đồng, với mục đích bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Tại thời điểm thực hiện hành vi (ngày 29/6/2017), bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân.

- Xét về nhân thân:

[5] Bị cáo đã có 06 tiền án bị xét xử về các tội "Trộm cắp tài sản", "Chống người thi hành công vụ", "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", "Cướp tài sản"; trong đó có 04 bản án chưa được xóa án tích. Tại Bản án số 1520/HSPT ngày 27/9/2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp "Tái phạm nguy hiểm" và xử phạt 10 năm tù về tội " Cướp tài sản tài sản" và 04 năm tù về tội " Cưỡng đoạt tài sản"; tổng hợp hình phạt cho 02 tội là 14 năm tù (chưa được xóa án) nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt là "Tái phạm nguy hiểm". Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về hành vi "Trộm cắp tài sản" theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[6] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tài sản bị cáo có giá trị không lớn nên xét cho bị có được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trên cơ sở đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo đã có 06 tiền án, trong đó có 04 tiền án chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo không có ý thức sửa chữa sai lầm, coi thường pháp luật, không từ bỏ con đường phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù, bắt bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[9] Do bị cáo không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Về trách nhiệm dân sự:

[10] 01 điện thoại nhãn hiệu Coolpad, vỏ nhựa màu vàng, màn hình cảm ứng 5,5 inchs, hệ điều hành Android, dung lượng bộ nhớ 8Gb, xuất xứ Trung Quốc. Đến thời điểm bị xâm hại tài sản có trị giá 3.000.000 đồng hiện không thu hồi được, bị hại ông Vũ Đức P yêu cầu bị cáo phải bồi thường theo kết luận định giá là 3.000.000 đồng, cần buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại theo khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điều 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự.

- Về án phí:

[11] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[12] Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[13] Đối với 02 chiếc xe mô tô: Nhãn hiệu YAMAHA Luvias màu trắng đỏ, BKS 15B1 - 001.27 và nhãn hiệu YAMAHA Nouvo màu xanh BKS 16M- 0477 là phương tiện Nguyễn Thế C sử dụng khi bị bắt giữ hiện cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: Nguyễn Thế C 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/02/2018.

Tạm giam bị cáo Nguyễn Thế C 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Thế C phải bồi thường cho ông Vũ Đức P 3.000.000 (ba triệu) đồng trị giá chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad, vỏ nhựa màu vàng, màn hình cảm ứng 5,5 inchs, hệ điều hành Android, dung lượng bộ nhớ 8Gb, xuất sứ Trung Quốc.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về án phí: Căn cứ điểm a, d khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Thế C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Bị cáo Nguyễn Thế C, bị hại ông Vũ Đức P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HS-ST ngày 31/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:41/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về