Bản án 41/2018/HS-ST ngày 27/04/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 41/2018/HS-ST NGÀY 27/04/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Vào ngày 27 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 18/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Ngọc V, sinh năm 1993 tại Quảng Bình; Nơi cư trú: thôn L, xã L, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; Nghề nghiệp: lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Ngọc M, sinh năm 1956 và bà Trần Thị G, sinh năm 1957; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giam ngày 30 tháng 10 năm 2017. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại:

1. Cháu Hồ Nguyễn Tr, sinh ngày 09 tháng 01 năm 2008. (đã chết).

Đại diện hợp pháp của cháu Hồ Nguyễn Tr: Anh Hồ Trung L, sinh năm 1984 và chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Là người đại diện theo pháp luật. (Có mặt)

2. Anh Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1979; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Ngọc Q: Chị Châu Thị N, sinh năm 1985; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Là người đại diện theo pháp luật (anh Nguyễn Ngọc Q bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo Bản án số 01/2018/QĐST-DS ngày 10 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Thuận). (Có mặt)

3. Anh Trần Thanh G, sinh năm 1994; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Đại diện hợp pháp của anh Trần Thanh G: Ông Trần L, sinh năm 1964; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 16 tháng 11 năm 2017). (Có mặt)

4. Chị Hoàng Thị K, sinh năm 1973; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)

5. Anh Nguyễn P, sinh năm 1970; Nơi cư trú: thôn A, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)

6. Cháu Nguyễn Võ Ngọc H, sinh ngày 26 tháng 9 năm 2004; Nơi cư trú: thôn A, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

7. Cháu Nguyễn Võ Hoàng P, sinh ngày 03 tháng 02 năm 2007; Nơi cư trú: thôn A, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Võ Ngọc H vàcháu Nguyễn Võ Hoàng P: Anh Nguyễn P, sinh năm 1970 và chị Võ X, sinh năm 1970; Nơi cư trú: thôn A, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Là người đại diện theo pháp luật. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn VT, sinh năm 1965; Nơi cư trú: thôn T, xã S, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. (Vắng)

2. Anh Nguyễn V, sinh năm 1994; Nơi cư trú: thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Vắng)

3. Anh Trấn Minh L, sinh năm 1997; Nơi cư trú: thôn T, xã S, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Vắng)

- Nguyên đơn dân sự: Ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1958; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Có mặt)

- Bị đơn dân sự: Anh Lê Ngọc H, sinh năm 1988; Nơi cư trú: thôn L, xã L, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. (Có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Hồ Trung L, sinh năm: 1996; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (Vắng)

2. Anh Bùi Tiến C, sinh năm: 1978; Nơi cư trú: ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Vắng)

 3. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1978; Nơi cư trú: ấp A, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (Vắng)

4. Ông Lê Ngọc M, sinh năm: 1956; Nơi cư trú: thôn L, xã L, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. (Có mặt)

5. Anh Hồ Thanh H, sinh năm: 1991; Nơi cư trú: ấp A, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (Vắng)

6. Anh Lê Vĩnh T, sinh năm: 1986; Nơi cư trú: ấp A, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai. (Vắng)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu cótrong hồ sơ vụ án vàdiễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ 10 phút, ngày 21 tháng 01 năm 2017, Lê Ngọc V có giấy phép lái xe hạng C theo quy định, điều khiển xe ôtô tải biển số 73-031.86 lưu thông trên đường quốc lộ 1A theo hướng từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Bình Thuận, cùng đi trên xe có anh ruột là Lê Ngọc H. Khi đi đến Km 1787 + 700m thuộc ấp A, xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Lê Ngọc V điều khiển xe ô tô tải biển số 73-031.86 lưu thông vào làn đường xe có động cơ bên trái đã va chạm vào xe ôtô khách biển số 86-009.34, do anh Nguyễn Ngọc Q cógiấy phép lái xe hạng C theo quy định, điều khiển theo chiều ngược lại gây tai nạn giao thông.

Hậu quả làm cháu Hồ Nguyễn Tr chết tại chỗ và 09 người bị thương gồm: anh Nguyễn Ngọc Q, anh Trần Thanh G, chị Hoàng Thị K, anh Nguyễn P, cháu Nguyễn Võ Ngọc H, cháu Nguyễn Võ Hoàng P, anh Nguyễn VT, anh Nguyễn V vàanh Trấn Minh L.

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 51/PC54-KLGĐPY ngày 21 tháng 01 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận nguyên nhân tử vong của cháu Hồ Nguyễn Tr là chấn thương ngực kín, gãy xương đòn, dập phổi.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 236/2017/TgT ngày 18 tháng 5 năm 2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của anh Nguyễn Ngọc Q là 55%.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 239/2017/TgT ngày 22 tháng 5 năm 2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của anh Nguyễn P là 87%.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 238/2017/TgT ngày 19 tháng 5 năm 2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của cháu Nguyễn Võ Ngọc H là 53%.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 237/2017/TgT ngày 24 tháng 5 năm 2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của cháu Nguyễn Võ Hoàng P là15%.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 254/2017/TgT ngày 30 tháng 5 năm 2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của anh Trần Thanh G là 91%.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 299/2017/TgT ngày 26 tháng 6 năm 2017 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của chị Hoàng Thị K là 66%.

Đối với ông Nguyễn VT, anh Nguyễn V vàanh Trấn Minh L bị thương nhẹ nên đã làm đơn xin từ chối giám định thương tật.

Kết luận giám định tư pháp số 12-2017/KLGĐ-PT ngày 28 tháng 02 năm 2017 của Sở giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai kết luận: xe ô tô tải biển số 73-031.86 trước khi xảy ra tai nạn giao thông là đảm bảo an toàn kỹ thuật. Sau khi xảy ra tai nạn, xe bị hư hỏng phần khung vỏ, lốp xe.

Kết luận giám định tư pháp số 101/KLGĐ-PC54(Đ3) ngày 09 tháng 03 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Cụm Dấu vết 1 trên vỏ (lốp) vàDấu vết 2 trên ruột (xăm) tại mặt trong bánh trước bên trái của xe ôtô biển số 73-031.86 là đối tượng giám định nêu tại mục 2 hình thành do quá trình va chạm với vật tày không xác định. Cụm Dấu vết 2 trên vỏ (lốp) và Dấu vết 1 trên ruột (xăm) tại mặt trong của bánh trước bên trái của xe ô tô biển số 73-031.86 là đối tượng giám định nêu tại mục 2 hình thành do áp lực khí vượt ngưỡng (nổ vật lý).

Tại công văn số 12/17/TLGĐ-KT ngày 26 tháng 6 năm 2017 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai có giải thích về cơ chế hoạt động của xe ôtô biển số 73-031.86 như sau: Xe ô tô biển số 73-031.86, có nhãn hiệu Thaco Auman C1790, tải trọng 17.9 tấn, hệ thống lái có kết cấu là “cụm cầu trước dẫn hướng”, cả 4 bánh trước dẫn hướng liên kết nhau thông qua cơ cấu cơ khí đòn keo, thanh truyền và ngổng quay. Khi hệ thống lái hoạt động, thì cả 4 bánh xe đều chịu tác động. Trong điều kiện xe ôtô tải 73-031.86 bị nổ 01 vỏ bánh trước bên trái đầu xe thì hoạt động hệ thống lái có thể xảy ra 2 trường hợp:

- Trường hợp thứ nhất: Nếu tác nhân gây nổ lốp chèn cứng đầu xe, gây kẹt cứng bánh xe dẫn hướng thìhệ thống lái không hoạt động được, mất khả năng điều khiển.

- Trường hợp thứ hai: Nếu tác nhân gây nổ lốp không chèn cứng đầu xe, không gây kẹt cứng bánh xe dẫn hướng thìhệ thống lái vẫn hoạt động được, nhưng hạn chế.

Tại công văn số 12b/17/TLGĐ-KT ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai, giải thích thêm về cơ chế hoạt động của xe ôtô biển số 73-031.86 trước khi xảy ra tai nạn, đang chuyên chở hàng có tổng trọng lượng 33.230kg bị nổ vỏ trước bên trái trước đầu xe và đã ảnh hưởng tới hệ thống lái như sau:

- Thứ nhất: Nếu xe ôtôtải 73-031.86 trước khi xảy ra tai nạn đang chuyên chở hàng có tổng trọng lượng 33.230 kg bị nổ vỏ trước bên trái đầu xe thì tất nhiên hệ thống lái không còn hoạt động bình thường.

- Thứ hai: Nếu xe ôtô73-031.86 bị nổ vỏ như trường hợp nêu trên thì khi nổ trọng tâm phân bố tải trọng lên cụm cầu trước sẽ dồn về bên trái đầu xe, gây khó khăn hơn cho việc điều khiển hệ thống lái (nặng, mặc dù hệ thống lái có trợ lực lái) nhưng tác dụng dẫn hướng vẫn có.

Kết luận định giá tài sản ngày 23 tháng 6 năm 2017 của Hội đồng định giátài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận: giá trị thiệt hại của xe ôtô 16 chỗ ngồi, biển số 86-009.34, nhãn hiệu: FORD, số loại: TRANSIT JX6582T-M3, số máy: F9P30842DURATORQ4D243H, số khung RL3MLTGMCFUR38862 màu sơn bạc, sản xuất năm 2015 tại Việt Nam, niên hạn sử dụng đến năm 2035 là 790.000.000 đồng.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông vào lúc 03 giờ 05 phút ngày 21 tháng 01 năm 2017 thể hiện:

Đoạn đường nơi xảy ra vụ tai nạn là đường Quốc lộ 1A, đường thẳng, mặt đường rộng 11m80, thảm nhựa bằng phẳng, giữa (tim đường) có vạch liền màu vàng song song nhau, phân chia hai luồng đường ngược chiều, mỗi luồng đường có 02 làn đường phân chia bởi vạch liền trắng, làn dành cho xe có động cơ rộng 3m50 và làn dành cho xe không có động cơ rộng 2m40. Trước khi xảy ra tai nạn xe ô tô tải biển số 73-031.86 có hướng lưu thông từ thành phố Hồ Chí Minh đi Bình Thuận vàxe ôtôkhách biển số 86-009.34 có hướng lưu thông Bình Thuận đi thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện trường vụ tai nạn giao thông được tính theo hướng Bình Thuận đi Thành phố Hồ Chí Minh và được môtả như sau:

- Xe ôtôkhách biển số 86-009.34 sau tai nạn dừng ở làn đường bên phải, đầu xe hướng thành phố Hồ Chí Minh chếch ra lề đường bên phải, đuôi xe hướng Bình Thuận chếch qua trái, trục bánh trước bên trái cách vạch liền song song màu vàng (tim đường) 4m50, trục bánh sau bên trái cách vạch liền song song màu vàng (tim đường) 2m80.

- Xe ôtôtải biển số 73-031.86 sau tai nạn dừng ở làn đường xe có động cơ bên phải vàmột phần của làn đường xe có động cơ bên trái, đầu xe hướng Bình Thuận chếch qua phải, đuôi xe hướng thành phố Hồ Chí Minh chếch qua trái, trục bánh trước bên phải của bánh thứ nhất cách vạch liền song song màu vàng (tim đường) 2m40 vàcách trục bánh thứ nhất bên trái xe ôtô86-009.34 là90cm, trục bánh trước bên phải của bánh thứ hai cách vạch liền song song màu vàng 1m70.

- Dấu vết phanh bánh lốp thứ 2 bên trái xe ôtô73-031.86 ở làn đường xe có động cơ bên phải có kích thước 4m x 20cm, đầu vết lốp hướng Bình Thuận cách vạch liền song song màu vàng (tim đường) 2m30, cuối vết phanh lốp hướng thành phố Hồ Chí Minh tại vị trítrục bánh thứ 2 bên trái xe ôtô73-031.86.

- Dấu vết kính vở, mãnh mũ bể trên làn xe có động cơ và làn xe không có động cơ bên phải phạm vi 5,3m x 5,1m, tâm cách tim đường 3m60.

- Ngoài ra qua công tác khám nghiệm hiện trường không phát hiện bất kỳ dấu vết nào khác để lại hiện trường vụ tai nạn.

- Trụ điện số 160 ở lề đất bên phải cách trục bánh sau bên trái xe ôtô biển số 73-031.86 về hướng thành phố Hồ Chí Minh 6m00 được chọn làm mốc hiện trường vụ tai nạn.

Bản cáo trạng số 29/CT-VKS-HS ngày 08 tháng 02 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố Lê Ngọc V về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 3 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Vào khoảng 02 giờ 10 phút ngày 21 tháng 01 năm 2017, Lê Ngọc V điều khiển xe ôtô tải biển số 73-031.86 lưu thông trên đường quốc lộ 1A theo hướng từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Bình Thuận. Khi đi đến Km 1787 + 700m thuộc ấp A, xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, Vương điều khiển xe ôtô tải biển số 73-031.86 lưu thông vào làn đường xe có động cơ bên trái đã va chạm vào xe ôtô khách biển số 86-009.34, do anh Nguyễn Ngọc Q điều khiển chạy ngược lại gây tai nạn giao thông. Hậu quả: cháu Hồ Nguyễn Tr chết, gây thương tích cho 9 người khác gồm: anh Nguyễn Ngọc Q tỷ lệ tổn thương cơ thể 55%, anh Trần Thanh G tỷ lệ tổn thương cơ thể 91%, chị Hoàng Thị K tỷ lệ tổn thương cơ thể 66%, anh Nguyễn P tỷ lệ tổn thương cơ thể 87%, cháu Nguyễn Võ Ngọc H tỷ lệ tổn thương cơ thể 53%, cháu Nguyễn Võ Hoàng P tỷ lệ tổn thương cơ thể 15%, ông Nguyễn VT, anh Nguyễn V vàanhTrấn Minh L thương tích nhẹ đã từ chối giám định thương tích. Thiệt hại xe ôtôkhách biển số 86-009.34 là790.000.000 đồng.

Tài liệu chứng cứ thu thập hoàn toàn khách quan, đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi của bị cáo Lê Ngọc V đã vi phạm vào khoản 1 Điều 9 của Luật Giao thông đường bộ. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Ngọc V về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 3 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12.

Bị cáo có các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của bị hại và đã bồi thường được một phần thiệt hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo cónhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự .

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14 xử phạt bị cáo Lê Ngọc V từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng vụ án: xe ôtô nhãn hiệu FORD TRANSIT biển số kiểm soát 86-009.34 và xe ôtô tải nhãn hiệu THACO biển số kiểm soát 73-031.86, cógiấy tờ đầy đủ, hợp lệ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã trả chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiệm dân sự, quá trình điều tra bị cáo và bị đơn dân sự đã bồi thường một phần cho các người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tại phiên tòa, bị đơn dân sự và những người bị hại thỏa thuận với nhau về số tiền bồi thường thiệt hại còn lại nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Ông Nguyễn VT, anh Nguyễn V và anh Trấn Minh L đã nhận đủ tiền bồi thường thiệt hại, có đơn bãi nại và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo Lê Ngọc V tự bào chữa: bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thống nhất với bản cáo trạng, ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc. Bị cáo nhận thấy hành vi của mình trái với quy định pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để có cơ hội sớm về hòa nhập với cộng đồng và chăm sóc cho gia đình.

Ý kiến của bị hại và người đại diện của bị hại về hành vi phạm tội của bị cáo: nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về bồi thường dân sự thìyêu cầu chủ xe anh Lê Ngọc H bồi thường tiếp theo yêu cầu của người bị hại.

Ý kiến của nguyên đơn dân sự ông Nguyễn Ngọc L: yêu cầu anh Lê Ngọc H bồi thường thiệt hại của xe ôtô biển số 86-009.34 là 790.000.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Ý kiến của bị đơn dân sự Lê Ngọc H: đồng ý với toàn bộ yêu cầu về bồi thường thiệt hại của các bị hại và nguyên đơn dân sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong quá trình điều tra ông Nguyễn VT, anh Nguyễn V và anh Trấn Minh L bị thương nhẹ đã từ chối giám định tỷ lệ thương tật, đã nhận được tiền bồi thường và không yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vàtại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Lê Ngọc V đã có hành vi điều khiển xe ôtôbiển số 73-031.86 đi không đúng phần đường gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng làm 01 người chết, 09 người khác bị thương và thiệt hại về tài sản là xe ôtô biển số 86-009.34 là 790.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 1 Điều 9 của Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Do đó, bị cáo đã phạm vào tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là công dân có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bị cáo có giấy phép lái xe ôtô hạng C, vậy mà khi điều khiển xe ô tô lưu thông trên đường bị cáo không tuân thủ các nguyên tắc an toàn giao thông, lấn qua phần đường bên trái dẫn đến tai nạn giao thông gây hậu quả đặt biệt nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe vàtài sản của người khác. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục một phần hậu quả. Bị cáo phạm tội lần đầu, có cha mẹ là người có công với cách mạng. Tại phiên tòa, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12 và quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12 là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về vật chứng, Cơ quan Công an thu giữ gồm: xe ôtô nhãn hiệu FORD TRANSIT biển số kiểm soát 86-009.34 và xe ôtô tải nhãn hiệu THACO biển số kiểm soát 73-031.86, có giấy tờ đầy đủ, hợp lệ. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã trả chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: quá trình điều tra, bị cáo và bị đơn dân sự anh Lê Ngọc H đã bồi thường một phần cho các bị hại. Tại phiên tòa, các bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại và nguyên đơn dân sự yêu cầu anh Lê Ngọc H là chủ xe ôtô biển số 73-031.86 thống nhất thỏa thuận bồi thường thiệt hại, theo đó anh Lê Ngọc H có trách nhiệm bồi thường cụ thể: bồi thường cho gia đình cháu Hồ Nguyễn Tr số tiền 140.000.000 đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Ngọc Q số tiền 120.193.000 đồng; bồi thường cho anh Trần Thanh G số tiền 200.000.000 đồng; bồi thường cho chị Hoàng Thị K số tiền 70.356.000 đồng; bồi thường cho anh Nguyễn P số tiền 138.781.000 đồng; bồi thường cho cháu Nguyễn Võ Ngọc H số tiền 47.760.000 đồng; bồi thường cho cháu Nguyễn Võ Hoàng P số tiền 4.151.000 đồng vàbồi thường cho ông Nguyễn Ngọc L số tiền 790.000.000 đồng. Xét thấy, sự thỏa thuận của các bên là tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật nên ghi nhận

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn VT, anh Nguyễn V và anh Trấn Minh L đã nhận được tiền bồi thường và không có yêu cầu gì khác nên không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Nguyên dơn dân sự anh Lê Ngọc H có nghĩa vụ bồi thường cho các bị hại và nguyên đơn dân sự tổng số tiền là 1.511.241.000 đồng nên phải chịu 57.337.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (36.000.000 đồng + (711.241.000 đồng x 3%)

Vìcác lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc V phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12:

Xử phạt: bị cáo Lê Ngọc V - 05 (Năm) năm tù, thời hạn tùtính từ ngày 30 tháng 10 năm 2017.

- Căn cứ Điều 42 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12; Điều 584, Điều 586, Điều 589, Điều 590 và Điều 591 của Bộ luật Dân sự năm 2015:

1. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho anh Hồ Trung L vàchị Nguyễn Thị L số tiền 140.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi triệu đồng).

2. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho anh Nguyễn Ngọc Q số tiền 120.193.000 đồng (Một trăm hai mươi triệu một trăm chín mươi ba ngàn đồng). 

3. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho anh Trần Thanh G số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

4. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho chị Hoàng Thị K số tiền 70.356.000 đồng (Bảy mươi triệu ba trăm năm mươi sáu ngàn đồng).

5. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho anh Nguyễn P số tiền 138.781.000 đồng (Một trăm ba mươi tám triệu bảy trăm tám mươi mốt ngàn đồng).

6. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho cháu Nguyễn Võ Ngọc H số tiền 47.760.000 đồng (Bốn mươi bảy triệu bảy trăm sáu mươi ngàn đồng).

7. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho cháu Nguyễn Võ Hoàng P số tiền 4.151.000 đồng (Bốn triệu một trăm năm mươi mốt ngàn đồng).

8. Buộc anh Lê Ngọc H bồi thường cho ông Nguyễn Ngọc L số tiền 790.000.000 đồng (Bảy trăm chín mươi triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn xin thi hành án (Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật) mà người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền nêu trên thìcòn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi 10%/năm tương ứng với thời gian vàsố tiền chưa thi hành.

- Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Ngọc V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Buộc anh Lê Ngọc H phải chịu 57.337.000 đồng (Năm mươi bảy triệu ba trăm ba mươi bảy ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Ngọc V, anh Hồ Trung L, chị Nguyễn Thị L, chị Châu Thị N, anh Trần Thanh G, ông Trần L, chị Hoàng Thị K, anh Nguyễn P, chị Võ X, ông Nguyễn Ngọc L, anh Lê Ngọc H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Ông Nguyễn VT, anh Nguyễn V vàanh Trấn Minh L được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 41/2018/HS-ST ngày 27/04/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:41/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về